Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Vậy

31 Tháng Mười 201707:25(Xem: 7538)
Như Vậy

NHƯ VẬY

Nguyễn Thế Đăng

Như Vậy


Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp. Đó là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, đầu cuối rốt ráo như vậy” (Phẩm Phương tiện).

Như vậy (như thị) là tánh Như, như thật (yathabhuta), Chân Như. Về tánh Như này, chúng ta trích ra một đoạn trong kinh Đại Bát-nhã, phẩm Đại Như:

“Trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa nói thế này: sắc tức là Bát-nhã ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật tức là sắc; cho đến Nhất thiết chủng trí tức là Bát-nhã ba-la-mật, Bátnhã ba-la-mật tức là Nhất thiết chủng trí. Sắc tướng Như, Bát-nhã ba-la-mật tướng Như là một Như, không hai không khác; cho đến Nhất thiết chủng trí tướng Như, Bát-nhã ba-la-mật tướng Như là một Như, không hai không khác”.

Không chỉ các pháp là tướng Như, mà Tu-bồ-đề và Đức Phật đều là tướng Như:

“Vì Như Lai tướng Như chẳng đến chẳng đi; Tu-bồ- đề tướng Như cũng chẳng đến chẳng đi. Thế nên Tu bồ-đề là tùy Phật sanh.

Lại Tu-bồ-đề từ xưa đến nay vẫn tùy Phật sanh. Tại sao thế? Vì Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như; tất cả pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Thế nên Tu-bồ-đề là tùy Phật sanh.

Lại Như Lai Như là tướng thường trụ; Tu-bồ đề Như cũng là tướng thường trụ. Như Lai Như tướng không dị không biệt; Tu-bồ-đề Như tướng cũng không dị không biệt. Thế nên Tu-bồ-đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như không có chỗ ngại, tất cả pháp tướng Như cũng không có chỗ ngại; đây là Như Lai tướng Như cùng tất cả pháp tướng Như là một Như không hai không khác. Tướng Như này là vô tác, hoàn toàn không có gì chẳng Như, nên tướng Như này là Như duy nhất không hai không khác. Thế nên Tu-bồ- đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như tất cả chỗ vô niệm vô biệt; Tubồ-đề tướng Như cũng tất cả chỗ vô niệm vô biệt. Như Lai tướng Như chẳng dị biệt, chẳng thể được; Tu-bồ-đề cũng vậy. Thế nên Tu-bồ-đề là tùy Phật sanh”.

“Mười như vậy” trong đoạn kinh Pháp Hoa ở trên đã được giải nghĩa rõ ràng bằng đoạn kinh Đại Bát-nhã, phẩm Đại Như này. Tóm lại, thấy “thật tướng của tất cả các pháp” tức là thấy tướng Như của tất cả các pháp

“Tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, đầu cuối” đều như vậy, đều Như. Thấy mười pháp ấy đều tướng Như, đó là điều kinh Pháp Hoa nói là tri kiến Phật. Mười pháp ấy là tất cả hình tướng, sinh thành, chuyển động, tương tác, thời gian (đầu cuối) nhân quả của vũ trụ. Vũ trụ ấy là vũ trụ Như, hay nói theo kinh điển, là Pháp giới Chân Như, Pháp giới Nhất chân.

Tướng Như, tánh Như không phải là sự hoại diệt, sự dừng lại của tất cả các pháp, để Niết-bàn là sự tịch lặng, bất động, “tắt mất” của tất cả các pháp. Tướng Như, tánh Như không phải là sự đồng nhất vô phân biệt, tĩnh chết; trái lại, đó là sự sanh khởi, đa dạng, sống động, khác biệt nhau mà vẫn là Như. Tu-bồ-đề vẫn là Tu-bồ-đề, Đức Phật vẫn là Đức Phật, nhưng cả hai đều Như. Không phải rằng Như thì không có Tu-bồ-đề khác với Đức Phật. Thế nên kinh không nói chỉ một cái “như vậy” mà đến mười cái “như vậy”.

Mười cái như vậy này gồm tất cả sự vật, con người, thánh phàm… Mọi sự vật, con người, thánh phàm, thế giới… đều ở trong tướng Như và là tướng Như. Mọi cử động, đi đứng nằm ngồi, hoạt động, nghĩ suy, sinh hoạt hàng ngày đều ở trong tướng Như và là tướng Như. Đó là cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật). Nhận biết trực tiếp như vậy, an trụ trong đó tức là tu hành. Tu hành là Tam-muội tự thọ dụng trong Pháp giới Nhất chân này.

Mười cái tướng, tánh, thể, lực, tác… là tất cả không gian, thời gian, tất cả sanh tử. Thấy mười cái ấy là Như, là “như vậy”, đó là cái thấy “thật tướng của tất cả các pháp”, là cái thấy của các bậc giải thoát, giác ngộ. Cái thấy này đưa chúng ta đến một chỗ chung của Đại thừa: “sanh tử tức Niết-bàn”.

Mười cái như vậy nói lên các pháp vốn hoàn hảo, vốn toàn thiện: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, đầu cuối rốt ráo như vậy. Cái như vậy này - cái Như này - không bác bỏ nhân quả, không ngăn cấm sự tạo tác, chuyển động, sự chín thành của quả báo; nghĩa là không ngăn cấm không gianthời gian. Cá thể nào tạo nhân gì thì được quả tương ứng, không sai chạy; gây nhân tốt thì có quả tốt, gây nhân xấu thì có quả xấu. Có điều người có cái thấy biết chân chánh thì thấy tất cả đều ở trong cái Như Vậy và là cái Như Vậy. Giống như người thấy tánh vàng của tất cả mọi cái bằng vàng, tánh vàng đó không ngăn cấm có người làm ra tượng vàng cụt đầu, gãy tay, tạo ra một cuộc đời hư hỏng, khổ đau; nhưng với người thấy và sống tánh vàng thì thấy tất cả đều là vàng. Người nào tạo tác nhân xấu thì chịu quả xấu, tạo tác nhân tốt thì được quả tốt; nhưng với người có cái thấy biết chân thật thì xấu là như vậy và tốt cũng là như vậy. Thế nên người ấy thoát khỏi xấu tốt, khổ đau và vui sướng, không gian và thời gian… để sống trong Pháp giới Nhất chân ở nơi sanh tử mà siêu vuợt khỏi sanh tử.

Guru Padmasambhava nói về Đại Toàn thiện (Dzogchen) như sau:

“Trong quả cầu đơn nhất này của Pháp thân, không có cái gì không là toàn thiệnthanh tịnh; từ những mạn-đà- la của các bậc giác ngộ ở trên cho đến những thế giới địa ngục bên dưới, tất cả đều là toàn thiệnthanh tịnh. Thế nên không có khác biệt dù trong những trạng thái khổ đau hay trạng thái giác ngộ, giữa chư Phật và chúng sanh.

Hơn nữa, đây không phải là cái gì đã được tạo ra, mà là đã hiện diện tự phát từ sơ thủy, và bởi thế quả Pháp thân là tánh giác tự hiện hữu. Nó được thấy ngay bây giờ nhờ giáo huấn của thầy con, và vì nó không phải là cái gì có thể trau dồi hay hoàn thành, nó là một sự toàn thiện vốn thanh tịnh” . (Những kho tàng từ đỉnh cây tùng xù Erik Pema Kunsang và Marcia Binder Schmidt dịch, Nxb Thiện Tri Thức)

Ngài Milarepa nói:
Cả hai, chúng sanh của ba cõi sanh tử
Và chư Phật trong niết-bàn
Được bao hàm trong thân của thực tại
(Pháp thân)

Những hiện tượng khách quan xuất hiện với sáu căn Và tâm vô sanh của bạn Cả hai cùng khởi một cách bất nhị.

Ngài Gampopa nói:
Giờ đây hãy biết tánh Không trong sáng này
Của những hình tướng xuất hiện và tánh giác
Chính là Pháp thân.
(Sự nhận diện Đại Ấn)

Nhìn thấy mỗi một sự vật và tất cả sự vật là Pháp thân, là hoàn hảo toàn thiện, là tướng Như, là sự chứng đắc của Đại thừa.

Sư Đạo Hạnh đời Lý nghe Thiền sư Trí Huyền dạy đạo ở Thái Bình, đến tham hỏi về chân tâm bằng bài kệ:
Lầm loạn giữa trần chẳng hiểu vàng
Chẳng hay đâu chốn trụ chân tâm?
Cúi mong chỉ thẳng khai phương tiện
Thấy rõ như như hết khổ tìm
.

Thiền sư Trí Huyền đáp:
Trong ngọc bí thanh diễn diệu âm
Trong đây đầy mắt lộ thiền tâm
Hà sa cảnh đó Bồ-đề cảnh
Nghĩ hướng Bồ-đề cách vạn tầm
.

Huệ Trung Thượng sĩ đời Trần khi có người hỏi: Thế nào là Pháp thân?

Sư đáp:
Bờ ao xem hai trẻ
Dưới nguyệt vui ba người


Nguyễn Thế Đăng
Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26648)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13060)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27026)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32859)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31663)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32585)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13025)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12147)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17502)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18729)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12578)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11782)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13133)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12212)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12495)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11638)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10607)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10932)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28326)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11175)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11041)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11435)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10901)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11186)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26353)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14887)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11063)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20334)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12362)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10767)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23915)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11854)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12305)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12835)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11049)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38736)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10539)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12200)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17713)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25054)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10557)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10761)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12056)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11313)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14742)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21441)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9903)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11264)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27374)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11183)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11845)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11010)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14313)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11479)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant