Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

25. Quan Niệm Về Thần Linh, Thượng Đế

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11627)
25. Quan Niệm Về Thần Linh, Thượng Đế

QUAN NIỆM VỀ THẦN LINH, THƯỢNG ÐẾ

Sự phát triển quan niệm về thần linh, Thượng đế

Truy nguyên về nguồn gốc và sự tiến bộ quan niệm về thần linh, Thượng đế, chúng ta phải quay về thời đại khi mà các nền văn minh đang còn trong thời kỳ trứng nước và khoa học vẫn chưa được biết đến. Con người thời tiền sử, do vì sợ hãi và ngưỡng phục những hiện tượng thiên nhiên, đã tin vào nhiều vị thần linhma quỷ khác nhau. Họ đã dùng những vị thần linh để hình thành nên tôn giáo của riêng mình. Tuỳ theo khả năng hiểu biết và những hoàn cảnh khác nhau, những chủng người khác nhau đã hình thành nên nhiều tôn giáotín ngưỡng khác nhau của riêng mình.

Ngay từ lúc khởi đầu đối với tín ngưỡng ý niệm về thần linh, Thượng đế, con người đã tôn thờ và sùng bái nhiều vị thần khác nhau như thần cây, thần sông, thần ánh sáng, thần mặt trời, thần giông, bão, gió và tất cả những hiện tượng tự nhiên trên trái đất này. Những vị thần này có liên hệ với nhau và mỗi vị đều có cùng bản chất hoạt động. Sau đó, con người dần dần bắt đầu chuyển đổi những vị thần này, về mặt giới tính, hình thức giống như những đặc điểm về vật lý cũng như tâm lý của con người. Bản tính của con người là do các vị thần này quy định như: tình thương yêu, giận hờn, ghen tuông, sợ hãi, kiêu căng, thù hận và những cảm xúc tình cảm khác được tìm thấy trong con người. Từ tất cả những vị thần này, dần dần người ta nhận thức rằng hiện tượng của vũ trụ không nhiều mà chỉ có một hiện tượng mà thôi. Sự hiểu biết này dần dần đưa đến sự phát triển tôn giáo nhất thần trong những thời đại gần đây.

Trong quá trình phát triển, quan niệm về thần linh, Thượng đế trải qua một quá trình thay đổi đa dạng về mặt xã hội cũng như mặt nhận thức. Quan điểm này được mọi thành phần người, mọi tầng lớp người khác nhau trong xã hội xem xét. Một số người thần tượng hoá Thượng đế như là ông Hoàng của cõi trời đất; họ có quan niệm về Thượng đế như là con người bình thường. Những người khác nghĩ về Ngài như là một nguyên lý trừu tượng. Lại có một số người nâng cao ý tưởng về Thượng đế như là đấng toàn năng trong một cõi trời cao nhất, trong khi những người khác lại có quan điểm về Ngài như là một sự khinh khi. Một số người mô tả Thượng đế trong một thiên đường, trong khi những người khác coi đó như là một sự thần tượng và sùng bái Ngài. Một số người còn có quan niệm xa hơn nữa, cho rằng sẽ không có sự cứu rỗi nếu không có Thượng đế-cho dù chúng ta làm rất nhiều điều thiện đi nữa, chúng ta sẽ không nhận được những thành quả, kết quả của những hành động đó trừ phi chúng ta hành động vì lòng tin vào Thượng đế. Những nhà thần học nói: “Vâng, tiếp tục khẳng định rằng Thượng đế thực sự hiện hữu”. Những nhà vô thần nói: “Không và đi đến khẳng định rằng Thượng đế thực sự không hiện hữu trên cõi đời này”. Những người theo thuyết bất khả tri hay chủ nghĩa hoài nghi nói: “Chúng ta không biết hoặc không thể biết”. Những nhà thực chứng lại cho rằng ý tưởng về Thượng đế là một vấn đề vô nghĩa bởi vì một ý tưởng mang danh Thượng đế thì hơi mờ ám và không được rõ ràng. Do vậy, có nhiều sự hiểu biết đa dạng về những quan điểm, ý tưởng, niềm tin và danh xưng đối với Thượng đế như là: thuyết phiếm thần, sự tôn sùng thần tượng, tín ngưỡng một đấng Thượng đế vô hình, niềm tin voà nhiều vị thần nam cũng như nữ khác nhau v.v....

Thậm chí Thượng đế của thuyết nhất thần luận trong những thời gian gần đây đã trải qua một sự thay hình đổi dạng ở nhiều hình thứcquan điểm khác nhau bởi vì ý tưởng này được truyền bá sang nhiều quốc gia và nhiều dân tộc khác nhau. Thượng đế của Ấn giáo thì khác với Thượng đế của Ky tô giáo. Thượng đế của Ky tô giáo thì khác với Thượng đế của những tôn giáo khác. Vô số tôn giáo đã ra đời; mỗi tôn giáo khác biệt nhau rất nhiều và mỗi tôn giáo đều nói rằng: “Thượng đế là nhất thể, là vị thần duy nhất”.

Quan điểm về Thượng đếsự tạo hoá

Khi mỗi tôn giáo xuất hiện và phát triển xung quanh ý niệm về Thượng đế, thì tôn giáo đó lại phát triển ý niệm về Thượng đế của riêng mình theo cách lý giải đặc biệt về đấng Tạo hoá. Do đó, khi mà quan niệm về Thượng đế được phát triển trong nhiều hệ thống tôn giáo khác nhau, thì quan niệm này lại trở nên hội nhập với nhiều huyền thoại khác nhau. Con người thường dùng ý tưởng về Thượng đế như là một chiếc xe chuyên chở những lời giải thích về sự hiện hữu của con ngườibản chất của cuộc đời.

Ngày nay, những người có đầu óc lý trí, thông minh đã quan sát thận trọng tất cả những sự kiện hiện thực sẵn có, và đi đến kết luận rằng, cũng như ý tưởng về Thượng đế, những huyền thoại về đấng Tạo hoá phải được xem như một sự tiến bộ của óc tưởng tượng của con người được bắt đầu do sự hiểu sai lạc về những hiện tượng của tự nhiên. Những sự hiểu sai lạc này cắm gốc rễ xâu vào trong trạng thái sợ hãi và sự ngu dốt của con người thời tiền sử. Ngay cả trong thời đại ngày nay, con người vẫn còn mang theo những sự giải thích thuộc thời tiền sử về sự tạo hoá. Dưới ánh sáng của tri thức khoa học và kỹ thuật, những tư duy mang tính khoa học, những định nghĩa Thần học về Thượng đế mơ hồ, do đó, không có chỗ đứng trong những học thuyết hoặc huyền thoại về sự Tạo hoá.

Nếu con người được tạo ra từ một thế lực bên ngoài, thì anh ta phải lệ thuộc vào đấng thế lực toàn năng đó chứ không lệ thuộc vào chính bản thân anh ta. Người Phật tử tin rằng con người phụ thuộc vào chính bản thân mình, là sản phẩm của chính mình và là kiến trúc sư xây dựng cuộc đời mình và tin rằng anh ta phải lãnh lấy hoàn toàn những trách nhiệm cho những hậu quả mà anh ta đã làm. Do đó, người Phật tử không có lý do gì để tin rằng con người hiện hữu với hình thức người nhờ vào những đấng quyền năng siêu nhiên bên ngoài. Người Phật tử tin rằng con người có mặt ngày nay và ở thế giới này là bởi vì do nghiệp của anh ta. Anh ta cũng không chịu sự chi phối của một đấng quyền năng nào bên ngoài chi phối, hoặc là đấng quyền năng ấy có quyền thưởng phạt và ban cho những ân huệ đặc biệt, nhưng tuỳ theo những nghiệp thiện hay ác đã tạo quyết định lấy sự thươngr phạt của anh ta. Trong quá trình tiến hoá và phát triển, loài người xuất hiện trên thế giới này. Tuy nhiên, Ðức Phật không dạy một lời nào về quan điểm cho rằng thế giới này là sản phẩm của bất kỳ một ai, hoặc do bất cứ một ai đó snág tạo. Những khám phá gần đây về sự tiến bộ dần dần của hệ thống vũ trụ tương xứng với những lời dạy của Ðức Phật cách đây hơn 2500 năm.

Yếu Ðiểm Của Con Người Và Những Tôn Giáo Tôn Thờ Thượng Ðế

Cả ý tưởng về Thượng đế và những sự giải thích huyền hoặc về sự tạo hoá kèm theo ý tưởng đó đã được bảo vệ và bênh vực bởi những tôn giáo tôn thờ Thượng đế. Họ cần những ý tưởng này để làm thoả mãn sự hiện hữu của họ và mang lại những ích lợi cho xã hội loài người. Tất cả các tôn giáo tôn thờ Thượng đế đều cho rằng là họ đã nhận được Thánh Kinh như là sự Mặc Khải của Chúa Trời; hay nói cách khác, tất cả họ đều là sản phẩm trực tiếp của một đấng Thượng đế. Mỗi tôn giáo đều cho rằng tôn giáo của họ là một tôn giáo của tình thương yêu và hoà bình phổ quát, của tình huynh đệ giữa nhân loại và những tôn giáo khác có những ý tưởng cao thượng hơn. 

Cho dù những ý tưởng cao thượng hơn, vĩ đại hơn của những tôn giáo này, lịch sử đã cho thấy rằng những tôn giáo tồn tại cho đến ngày nay cũng đã giúp cho sự truyền bá mê tín dị đoan. Một vài tôn giáo đã đứng lên chống lại khoa học và những tiến bộ của tri thức, đưa đến sự tranh cãi, nhẫn tâm, sự cướp bóc và chiến tranh, xung đột thế giới. Xét về phương diện này thì các tôn giáo thờ Thượng đế đã thất bại trong sự nghiệp giác ngộ nhân loại của mình. Chẳng hạn, ở một số quốc gia, khi dân chúng cầu nguyện để được ban phước lành, thì đôi bàn tay của họ bị thấm nhuần bởi những giọt máu của sự dâng hiến bệnh hoạn, cúng tế thần linh những loại thú vật vô tội và đôi khi, ngay cả đồng loại của con người cũng được giết để cúng tế thần linh. Những sinh vật thấp hènvô dụng này được mổ thịt để án thờ của những vị thần được mạo phạm, báng bổ chỉ ở hình thức tưởng tượng mà không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Phải mất một thời gian khá lâu để con người mới có thể hiểu được sự vô nghĩa của những hành động tàn bạo như thế dựa trên danh nghĩa tôn giáo. Cho đến khi nào thì con người mới nhận ra rằng con đường của sự thanh tịnh hoá hoàn toàn do tình thương và sự hiểu biết mang lại?

Một yếu điểm khác của các tôn giáo sùng bái Thượng đế là họ không thể được cứu rỗi, giải thoát mà không cần đến Thượng đế. Do vậy, con người có thể tưởng tượng rằng mình đã leo lên đến đỉnh cao nhất của nền luân lý đạo đức, và anh ta ắt hẳn có thể đã sống một cuộc đời chân chánh, thánh thiện, và thậm chí anh ta có thể đã leo lên đến mức cao nhất của sự thánh thiện. Tuy nhiên, anh ta bị trừng phạt, đày đoạ mãi mãi ở nơi địa ngục chỉ vì anh ta không tin vào sự hiện hữu của một đấng Thượng đế sáng tạo. Trái lại, con người có thể đã gây tạo nhiều tội lỗi, song anh ta có thể tỏ ra hối hận, ăn năn sau cùng, thì anh ta có thể được tha thứ và do vậy được cứu rỗi nhờ vào ân sủng của Thượng đế. Theo quan điểm của đao Phật, không có một sự công bằng, bình đẳng nào theo tinh thần học thuyết trên.

Thay vì những yếu điểm của các tôn giáo sùng bái Thượng đế, người ta cho rằng làm thế là khôn ngoan để tuyên thuyết một học thuyết không mang bản chất Thượng đế bởi vì niềm tin vào Thượng đế sáng tạo cũng đã đóng góp nhiều cho nhu cầu của nhân loại đặc biệt trong những nơi và những lúc mà quan niệm về Thượng đế đáng được mong muốn. Niềm tin vào Thượng đế đã giúp cho nhân loại kiểm soát, điều khiển được bản năng thú tính của mình. Và nhiều người khác cũng được ban cho ân huệ trên danh nghĩa của Chúa. Ðồng thời, con người cảm thấy bất an nếu khôngniềm tin vào Thượng đế. Con người cảm thấy được che chở và khơi dậy nguồn cảm xúc khi niềm tin đó hiện hữu trong tâm trí của anh ta. Tính thiết thực hay giá trị pháp của một niềm tin như thế được căn cứ trên cơ sở khả năng hiểu biếtnhận thức của con người và sự trưởng thành về mặt tâm linh của anh ta.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của các tôn giáo là khi con người được ép buộc nhìn nhận tôn giáo của mình như là một đối tượng của sự duy sùng bái, cầu nguyện. Có nghĩa là yếu tố nhu yếu sống động của tôn giáo lại phục vụ cho nhu cầu, chức năng tê liệt, chết chóc, và nghi thức trịnh trọng. Khi tôn giáo để cho những điều kiện này hiện hữu, cùng tồn tịa thì tôn giáo đó sẽ mất đi giá trị tôn giáotrở thành một chướng ngại cho sự thật của cuộc đời.

Song, không phải hoàn toàndo nơi tôn giáo mà là do những con người tôn thờ tôn giáo và tạo ra nhu cầu cho một niềm tin mù quáng ở nơi tôn giáo của họ. Niềm tin mù quáng này, ngược lại, đã tạo ra những cảm giác chung cùng phái và những hình thức đảng phái khác trong các tôn giáo. Do đó, tôn giáo, thay vì những lý tưởng cao cả của mình, đã thất bại trong sự nghiệp truyền bá sự giác ngộ cho quần sanh của mình.

Tôn giáo phải quan tâm đến đời sống thực tế của chúng ta. Tôn giáo phải được dùng đến như là một sự chỉ dẫn để điều tiết những hành động luân lý đạo đức của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nó dạy cho chúng ta những gì nên làm và những gì nên biết. Nếu chúng ta không làm hay không biết một cách chính xác thì tôn giáo sẽ vô dụng và chẳng có ích lợi gì cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

Trái lại, nếu những tín đồ của các tôn giáo cứ tiếp tục đánh nhauchỉ trích lẫn nhau và đặc biệt là tán thành hay phản bác sự hiện hữu của Thượng đế và nếu họ tiếp tục truyền bá hận thù đối với những tôn giáo khác do vì khác nhau về quan điểm tôn giáo, thì lúc đó họ sẽ tạ ra sự bất đồng lớn giữa nhiều cộng đồng tôn giáo khác nhau. Cho dù chúng ta mang những nhãn hiệu tôn giáo khác nhau, song chính bổn phận và trách nhiệm của chúng ta là phải thực hành sự khoan dung, độ lượng, kiên nhẫn và sự hiểu biết lẫn nhau. Chính trách nhiệm của chúng ta phải tôn trọng tín ngưỡng của những người khác cho dù chúng ta không thể giúp đỡ tôn giáo ấy; khoan dung, độ lượng rất cần thiết vì lợi ích cho một cuộc sống hài hòa và an lạc.


NIỀM TIN VÀO CÁC VỊ THẦN LINH

Người Phật tử không phủ nhận hoặc phản bác sự hiện hữu của nhiều vị thần linh khác nhau, những người may mắn hơn loài người xét về mặt dục lạc vật chất. Những vị thần này cũng có một số khả năng thần thôngcon người không có. Tuy nhiên, khả năng của các vị thần này còn bị hạn chế bởi vì họ còn chịu quy luật vô thường chi phối. Họ an trú trong những cảnh giới hạnh phúc, an lạcthọ hưởng đời sống hạnh phúc và sống lâu hơn những chúng sanh thông thường. Khi các vị này đã thọ hưởng hết những thiện nghiệpcõi trời thì những vị thần này sẽ chết đi theo quy luật thông thường và sẽ được tái sanh ở những cảnh giới khác tuỳ theo thiện nghiệpác nghiệp của các vị. Ðức Phật dạy: “Con người là chúng sanh duy nhất có nhiều cơ hội tốt để tạo phước báo để được sinh vào những cảnh giớiđiều kiện tốt hơn các loài chư Thiên xét về phương diện này”.

Người Phật tử không cho là những vị thần này đóng một vai trò quan trọng nhất định nào đó trong cuộc sống của họ. Họ không xem những vị thần này là những động cơ hỗ trợ sự tiến bộ về mặt luân lý đạo đức hoặc là một sự giúp đỡ để chứng được sự an lạc, giải thoát an lạc, Niết-bàn. Cho dù những vị này to lớn hay nhỏ bé, cả con người và những vị thiên thần này cũng đều chịu sự đoạn diệtvô thường theo thời gian.

Song, trong những trường hợp khó khăn hay đau khổ người ta thường quay về nương tựa nơi chư vị thiên thần này để bày tỏ sự thống khổ, buồn phiền của mình ở những nơi thờ phụng. Bằng cách làm như vậy, họ có thể đạt được một vài sự an ủi, xoa dịu những nỗi khổ đau đó trong tâm của họ. Họ cảm thấy an lạc hơn những lúc trước. Tuy nhiên, đối với người thuộc tầng lớp trí thứcý chí mạnh mẽ, có học thức tốt và hiểu biết đúng đắn, thì những hành động như thế sẽ không cần thiết. Người Phật tử tin rằng sự thanh tịnhnhiễm ô tuỳ thuộc vào chính bản thân mình. Không ai từ bên ngoài có thể làm cho người khác thanh tịnh. Phương pháp này được chứng minh thành công trong cuộc đời tu tập để chứng Phật quả của Ðức Phật và do vậy, sự chứng đắc Niết-bàn có thể đạt được mà không nhờ vào sự giúp đỡ của một thế lực nào từ bên ngoài. Do đó, người Phật tử có thể thực hànhtu tập theo tôn giáo của mình mà không cần đến các vị thiên thần này. 


NGÕ TẮT ÐI ÐẾN THIÊN ÐƯỜNG

Thiên đường mở rộng không chỉ cho tín đồ của một tôn giáo cá biệt nào, nhưng nó được mở rộng cho mọi và bất cứ ai sống đời sống chân chánh và thánh thiện.

Người Phật tử đi lên thiêng đường không thực sự khó khăn gì nếu họ thực sự muốn. Nhưng có một số người đi từng nhà một để cố tìm mọi cách giáo hoá những người theo tôn giáo khác vào đạo của họ và hứa hẹn với họ một thiên đường mà họ mang trong túi sách của họ. Họ cho rằng duy họ là những người được ban phước có thể lên thiên đường; họ còn cho rằng họ có dư thẩm quyền để đưa những người khác đến thiên đường. Họ giới thiệu tôn giáo của họ giống như một loại thuốc đặc quyền sáng chế và điều này đã trở nên một sự phiền hà cho dân chúng trong thời đại ngày nay. Nhiều người vô tội không có sự hiểu biết về tôn giáo của họ, đã trở thành những nạn nhân của những người đi rao bán thiên đường này.

Nếu người Phật tử có thể hiểu được giá trị của nền giáo lý Thánh thiện, cao thượng của Ðức Phật, thì họ sẽ không bị những con người như thế lừa dẫn vào con đường sai lầm. Những người rao bán thiên đường này còn tìm mọi cách để lừa phỉnh người ta bằng cách nói rằng thế giới này là do thần linhThượng đế sáng tạo, và sẽ chấm dứt trong nay mai. Những ai muốn có được cuộc sống tuyệt vời, vĩnh cửu nơi thiên đường phải chấp nhận tôn giáo đặc trưng của họ trước khi thế giới này đến ngày tận thế, kẻo không con người ta sẽ bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này và sẽ phải chịu khổ đau mãi mãi trong địa ngục.

Sự đe doạ về ngày tận thế của thế giới đã được tiếp diễn hàng trăm năm. Ðiều ngạc nhiên nữa là hiện nay vẫn có một số người tin vào sự đe doạ đó, một sự đe doạ được xem là phi lýảo tưởng. Một số người được giáo hoá sau khi nghe những lời thuyết giảng như thế mà không cần sử dụng đến khả năng lý trí bình thường của họ.

Trong Phật giáo, không có một thẩm phán cá nhân hoặc là có quyền chỉ trích hoặc là tưởng thưởng mà chỉ có sự vận hành của một quy luật nhân quả, luân lý đạo đức không mang tính cá nhânquy luật của tự nhiên. Tại sao người tội lỗi lại sung sướng và người lương thiện lại khổ đau?

Có một số người hỏi rằng “Nếu nhân tốt sanh quả tốt và nhân ác sanh quả xấu thì tại sao có nhiều người tốt lại khổ đau và người tội lỗi, xấu xa lại sung sướng trên cuộc đời này?

Theo quan điểm của người Phật tử, giải đáp cho câu hỏi này là: mặc dù có một số người tốt về bản chất, song họ không tích luỹ đủ phước báo thiện trong kiếp quá khứ để bù lại cho những hậu quả xấu, nghiệp quả bất thiện trong kiếp hiện tại này; trong quá khứ, ắt hẳn có một khuyết điểm nào đó. Ngược lại, có một số người về bản chất thì tội lỗiđộc ác nhưng có thể sung sướng, hưởng thụ chỉ trong một khoảng thời gian ngắn trong kiếp hiện tại này do vì nghiệp thiện mà họ tích luỹ trong kiếp quá khứ.

Chẳng hạn, có một số người về bản chất thừa hưởng thể trạng khoẻ mạnh và kết quả là có sức khoẻ đầy đủ. Sức kháng cự của cơ thể họ quá mạnh và do vậy, họ không phải chịu sự đau khổ của bệnh tật. Mặc dù họ không quan tâm đặc biệt đến việc vệ sinh đặc biệt, song họ có thể duy trì sự khoẻ mạnh. Ngược lại, có một số người dùng nhiều chất bổ dưỡng và vitamin, những loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng để tăng cường bản thân, nhưng cho dù những nỗ lực để được trở nên mạnh khoẻ, sức khoẻ của họ vẫn không biểu hiện sự cải thiện mảy may nào.

Bất cứ nghiệp xấu hay tốt mà con người đã phạm trong kiếp hiện tại này, thì nhất định họ cũng trải qua sự tương ứng ngay trong kiếp sống này hoặc là trong kiếp sau. Chúng ta không thể trốn thoát những hậu quả mà mình đã tạo ra thông qua việc cầu nguyện suông, mà là chỉ bằng cách tu tập và sống cuộc đời thánh thiện.

Phật giáo khích lệ con người làm thiện không phải vì muốn lên thiên đường. Con người được mong đợi làm thiện để mà có thể dẹo đi cái ích kỷ và kinh qua trạng thái an lạchạnh phúc.


Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Mười 201414:06
Khách
Tác giả bài viết có nói: "Con người thời tiền sử, do vì sợ hãi và ngưỡng phục những hiện tượng thiên nhiên, đã tin vào nhiều vị thần linh và ma quỷ khác nhau. Họ đã dùng những vị thần linh để hình thành nên tôn giáo của riêng mình. " Vậy xin thử hỏi tác giả, ngày nay ở thế kỷ 21, thế kỷ mà được cho là thế kỷ của sự phát triển khoa học kĩ thuật, của kinh tế vv. Nhưng thủ hỏi có ai vì sợ mà tôn thờ Hitle, Tần Thủy Hoàng, Talin vv và những Đảng viên ở nước ta, khi thờ kính Bác Hồ là vì họ sợ hay là vì yêu mến. Vậy thì lý do gì mà tác giả dám khẳng định như câu trích dẫn trên, khi nói như vậy chẳng phải người viết đang tự nhận mình là một kẻ "mù xem voi".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9291)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11445)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7541)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12272)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143553)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6951)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11876)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8611)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19925)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9269)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10813)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13551)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11421)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9351)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14451)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7268)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32467)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13120)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20983)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39115)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7123)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8959)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6737)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9743)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9452)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8030)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11755)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16139)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9597)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12213)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8778)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15542)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7984)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17789)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8633)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8278)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10503)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15821)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17495)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7903)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12975)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8010)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8580)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9744)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10322)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23213)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19322)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10021)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8222)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24163)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8825)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8437)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7971)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17734)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9482)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8182)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24319)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24653)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8393)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8222)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant