Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chín Đoàn Truyền Giáo Trong Thời Đại Vua A Dục

17 Tháng Năm 201810:10(Xem: 4556)
Chín Đoàn Truyền Giáo Trong Thời Đại Vua A Dục

CHÍN ĐOÀN TRUYỀN GIÁO 
TRONG THỜI ĐẠI VUA A DỤC 

Thích Trung Định

 

Vài nét về A Dục Vương

Có thể nói rằng A Dục vương là một trong những vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn ĐộCho đến nay, sau hơn hai ngàn năm, nhưng tiếng tăm và uy đức của ông vẫn còn được người Ấn tôn kính. Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.

Trong khoảng năm 260 TCN, A Dục vương tiến hành một cuộc chiến tranh khóc liệt xâm chiếm đất nước Kalinga. Sau vinh quang chiến thắng, ông nhìn thấy cảnh người chết la liệt. Kinh hoàng trước cảnhchết thảm khốc này, ông hồi đầu quy y Tam bảo dưới sự hướng dẫn của Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta Tissa).

Sau khi quay trở về với Phật giáoA Dục vương dóc hết lòng hộ trì và xiễn dương Phật pháp. Từ một ông vua được gọi là Ác vương nay trở thành Thiện Kiến vươngtức từ một ông vua cực ác trở thành một vị vua cực thiện hết lòng hộ trì Phật pháp. Trên cương vị của mình, ông hộ trì Phật pháp một cách tích cựcvà hiệu quả. Cuộc kết tập kinh điển lần thứ ba khoảng năm 250 BCE tại Hoa Thị Thành (Pāṭaliputta) là một trong những cuộc kết tập quan trọng được sự bảo hộ của vua A DụcLịch sử ghi lại rằng tam tạng kinh, luật và luận được kết tập trọn vẹn và được ghi chép bằng văn bản.  Trong cuộc kết tập này, ngoài sự thanh lọc Tăng đoàn thì một vấn đề quan trọng nữa đó là đem giáo pháp của đức Phật truyền ra các nước bên ngoài Ấn ĐộCụ thể là có 9 đoàn đi đến những vùng khác nhau để truyền bá Chánh pháp.

Chín đoàn truyền giáo ra nước ngoài

Theo biên niên sử Tích Lan, trong triều đại của A Dục Vương gồm có chín đoàn truyền giáo ra nước ngoài theo lời đề nghị của Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu. Những vị tăng xuất chúng được cử đi chín vùng để truyền bá Phật pháp. Tất cả họ đều là những vị Tăng sỹ đã thông thạo Tam tạng kinh điểnuyên thâm Phật pháp và có khả năng diễn giảng giáo pháp một cách thông thạo. Đây được xem như lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn ĐộPhật giáo được truyền ra khỏi lãnh thổ. Từ đó Phật giáo bắt đầu có mặt trên khắp các lục địa Á, Âu.

Đây được xem như những sự kiện đặt nền mống đầu tiên cho việc hoằng truyền Phật giáo trên thế giới. Chin đoàn truyền giáo cụ thể:

1. Đoàn thứ nhất đi đến vùng Kashmir và Gandhara, do ngài Majjhantika dẫn theo 5 vị Tăng sĩ khác. Tại đây, đoàn đã sử dụng năng lực thần thông để quy phục một con rồng dữ và truyền dạy cho dân chúng lời dạy của đức Phật qua bài kinh Āsivisūpama và Āsīvisa trong Tương Ưng bộ kinhBài kinhĀsivisūpama tựa như một câu chuyện ngụ ngôn về sức mạnh của những điều xấu ác mà con người ý thức được. Và dạy một bài kinh khác có tên Āsīvisa, nói về sự nguy hiểm của tâm sân hận.

Kashmir và Gandhara thuộc vùng sâu, vùng xa của Ấn Độ thời đó, nên rất ít chư Tăng hành hóa. Do vậy, tại những vùng này trong giới luật khai mở hơn, có thể từ 5 vị Tăng là tiến hành được một Đại giới đàn truyền giới. Đây là trường hợp dành cho giới tử ở những nơi biên địa không có đông đảo Tăng chúng cư ngụ. Trong trường hợp này phải có ít nhất là một vị trì Luật và hiểu các pháp Yết-ma. Còn ở những vùng khác Phật giáo vững mạnh thì phải có đầy đủ Tam sư, Thất chứng mới cử hành được một Đại giới đàn.

2. Đoàn truyền giáo thứ 2 do ngài Rakkhita đến Varanasi để giảng dạy bài kinh Anamattagiya nhằm chuyển hóa những người còn đầy dẫy tâm vô minh và lòng tham áiHay nói cách khác, bài kinh này để đối trị với bốn thứ phiền não căn bản của con người đó là: ngã singã áingã mạn và ngã kiến.

3. Đoàn truyền giáo thứ 3 do ngài Mahādeva đến vùng Mahisamandala để giảng bài kinh Đề Bà Đạt Đa. Đất nước này ngày nay thường được gọi là Mysore. Có nơi gọi Máhissati là thủ đô của một hòn đảo trên dòng sông Narbadá[1].

4. Đoàn truyền giáo thứ 4 do ngài Dhamma Rakkhita đến vùng Aparantaka bờ biển phía Tây Ấn Độ để giảng bài kinh AgghikhandupamaBài kinh này nhấn mạnh trên hành vi đạo đức của con người. Theo Mahāvamsa, trong lần truyền giáo này có hơn 37 ngàn người quay trở về với Phật giáo và hơn ngàn người xuất gia vào trong hàng ngũ Tăng đoàn.[2] Trong đó phải nói đến ngài Na Tiên Tỷ kheo một nhân vật nổi tiếng gắn liền với bài kinh Milindapanna cũng là đệ tử của Ngài Dhamma Rakkhita.

Nước Aparantaka được xác định là nằm về phía Tây của Tiểu lục địa Ấn Độbao gồm bắc Gujarat, Kathiawar, Kachch và Sindh. Khu vực này cộng đồng người Hi lạp có thể đã tập trung. Ngày nay thành phố Gujarat được đặt tên là Junagadh gọi là “Thành phố của người Hy Lạp”.

5. Đoàn truyền giáo thứ 5 do ngài Mahadhammarakkhita đến vùng Maharattha để giảng bài kinh Mahanaradakassapa trong Jātaka. Trong đó nhấn mạnh về lòng từ bi và hỷ xả, bỏ ác, làm lành mang lại sự an lạc hơn là tham đắm trong các thú vui dục lạc.

6. Đoàn truyền giáo thứ 6 do ngài Mahārakkhita đến vùng Yonaloka trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ để giảng kinh Kālakārāma. Trong đó đức Phật nhấn mạnh đến niềm tin phải thông qua lý trí. Không nên tin tưởngmột cách mù quáng.

7. Đoàn thứ 7 do ngài Majhima đến vùng Hi Mã Lạp Sơn để giảng kinh Chuyển pháp luân. Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại vườn Lộc Uyển về sự thật bốn chân lý: Khổ, Tập, Diệt và Đạo và con đường Trung đạo (Thánh đạo Tám nghành) đưa đến giải thoát.

8. Đoàn truyền giáo thứ 8 do 2 ngài Sonaka and Uttara đến vùng Tam giác vàng thuộc Miến Điện để giảng kinh Brahmajālā. Trong đó, phân tích về sự suy đoán của triết học và nhánh mạnh đến hành viđạo đức của con người. Theo Mahāvamsa cũng đề cập đến việc hoàng đế A Dục gởi 2 vị tăng sĩ là Sona và Uttara đến vùng Suvannabhumi để truyền bá Phật giáo.

9. Đoàn thứ 9 do ngài Mahinda đến đảo Tích Lan để giảng kinh Cūlahatthipadopama và một số bài kinhkhác. Trong đó, nhánh mạnh đến sự niềm tin chân chính vào Tam bảo.

Tên gọi về chín đoàn truyền giáo cũng thấy xuất hiện trong cuốn Samantapāsādikā, nơi mà những chi tiết thú vị đã được đưa ra.

Theo Sasanavamsa đề cập đến 5 nơi ở vùng Đông Nam châu Á, nơi mà đoàn truyền giáo của A Dục vương thuyết giảng kinh Phật và làm lễ quy y Tam bảo cho hàng Phật tử. Đó là Kasmira và Gandhara là ở phía Nam của Kabul; Mahisamandala là ở AndhraVanavasa là ở vùng quanh Prome; Aparantaka là ở  trên phíaTây của Irrawaddy; Maharattha là Thái Lan, Yona là đất nước của bộ tộc Shan và Suvannabhumi (vùng tam giác vàng) là Thaton nay thuộc cộng hòa Miến Điện.

Kết quả của sự truyền giáo

Một trong những thành tựu quan trọng nhất được gắn với truyền thống của Phật giáo Theravāda đó là sự kết tập giáo pháp của đức Phật. Những thành tựu lớn lao này kéo dài hàng thế kỷ đó là do Hoàng đếA Dục gởi những nhà sư thành thạo về Tam tạng kinh điển và có thể đọc tụng thuộc lòng để truyền dạy trong chín quốc gia và vùng lảnh thổ khác nhau.

Trong đó phải nói đến sự truyền giáo đến Tích LanKashmir và Gandhara là rất thành công. Kết quả là dẫn đến một thời gian dài Phật giáo hiện diện và thống trị tại các vùng đó.[3] Sự thành công nhất của vua A Dục đó là việc đưa Mahinda con trai của mình đến Tích Lan cùng với 4 vị tu sĩ khác cùng một tiểu tăng. Đoàn truyền giáo này đã thành công trong việc chuyển hóa nhà vua Tích Lan thời bấy giờ trở thành một Phật tử hộ trì Phật pháp, và là nơi lưu giữ Tam tạng kinh điển Pāli cho đến ngày nay. Một thành công khác nữa đó là phái đoàn truyền giáo đến vùng đất Ai Cập và Hi Lạp. Tại đây có sự lẫn trộn giữa tư tưởng của người Hi Lạp và giáo lý Phật giáo ngay tại thời điểm đó. Do vậy, đã có sự hiện diệnmột cộng đồng người theo Phật trong xã hội Hi Lạp cỗ đại, đặc biệt là có những tu viện đầu tiên được xây dựng trước kỷ nguyên của Ki Tô Giáo.[4] Vai trò của các nhà sư Hi Lạp cho sự phát triển của Phật giáo tại đây là rất quan trọng. Trong đó phải nói đến triều đại Menander được đề cập trong Mahāvamsa. Ở đó, xuất hiện một bài kinh quan trong nằm trong Hậu tạng đó là Kinh Na Tiên Tỷ Kheo. Kinh này chủ yếu mô tả về cuộc vấn đáp giữa thầy Na Tiên và trò vua Di Lan Đà. Nội dung đối thoại nầy được truyền tụng, các giới Phật tử tôn thờ gần ngang hàng với các kinh do kim khẩu Phật nói ra. Đặc biệt với Phật Giáo Miến Điện, kinh này được nhiếp thâu vào Tiểu Bộ Kinh tức bộ thứ năm trong Ngũ Bộ Kinh của Giáo điển Nguyên Thủy. Niên đại xuất hiện của kinh nầy sớm nhất là vào khoảng thế kỷ I trước Tây lịch. Và nơi chốn xuất hiện lần đầu tiên hẳn phải là miền Tây Bắc Ấn Độ, trên lưu vực Ngũ Hà, nơi đã xảy ra cuộc đối thoại ấy.

Có một điều đáng nói ở đây, đó là sự uyển chuyển của các nhà sư truyền giáo trong giai đoạn này quá thành công bởi việc sử dụng phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sanhPhật giáo truyền vào mỗi quốc gia đều hòa nhập với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của vùng miền đó. Chính sự hòa nhập này đã làm cho Phật giáo dần dần có chỗ đứng vững chắc và để phát triển bền vững tại mỗi địa phương.

Như vậy, chúng ta có thể nói rằng A Dục vương có một vai trò rất lớn trong việc truyền bá chánh phápcủa đức Phật không những trong đất nước Ấn Độ mà còn lan rộng ra các nước khác trên thế giới. Chín đoàn truyền giáo đều có bảo hộ của vua A Dục, nên họ khá dễ dàng trong việc truyền tải lời Phật dạyđến với dân chúng. Và dần dần ăn sâu bán rể trở thành những trung tâm Phật giáo phát triển vững mạnh về sau.

Về Moggaliputta Tissa, nhân vật trung tâm trong các hoạt động truyền giáo của vua A Dục mà dòng chữ “Sappurisasa Mogalīputasa” được khắc trong bia ký, Cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của Ngài đối với Vua A Dục. Người có khả năng chuyển đổi nhà vua từ việc lấy chiến chinh xâm lược và tàn sát làm thú vui trở thành một vị vua hộ trì và truyền bá Phật pháp vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo thế giới mà cho đến nay ai cũng thừa nhận.

                                                                           

Tài liệu tham khảo:

  1. H.G. Wells, The Outline of History, London, 1920.
  2. Mahāvamsa.
  3. Dr. A. K. Singh, Nine Missions and its importance in spread of Buddhism.
  4. Cao Hữu Đính, (dịch) kinh Na Tiên Tỷ Kheohttp://www.budsas.org.

Thích Trung Định

 

Bài đọc thêm:
Đại Đế A Dục, Một Ông Vua Hộ Trì Phật Pháp (Thích Nguyên Tạng)

Asoka: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp - Tuyển Tập Các Bài Viết Về Vua A Dục

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19360)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24623)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15741)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37829)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21638)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13219)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14405)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12815)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13656)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23399)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32186)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26290)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40514)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26941)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13462)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12573)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17663)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12207)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12754)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10836)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10289)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26851)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18675)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34545)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32185)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant