Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lấp Lánh Những Góc Nhìn Huyền Diệu

19 Tháng Sáu 201803:31(Xem: 6148)
Lấp Lánh Những Góc Nhìn Huyền Diệu

LẤP LÁNH NHỮNG GÓC NHÌN HUYỀN DIỆU


Nhụy Nguyên

 
Đức Phật Thấy Pháp Là Thấy Ta


Vũ trụcon người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong trong việc mở hướng nhìn ra ngoài thế giới. Nhiều báo cáo đúc rút từ những công trình khám phá vũ trụ đã làm thay đổi nhận thức về vạn vật. Tiếp cận với nhiều thành quả khoa học mới, chúng tôi thấy rất gần với Kinh điển Phật giáo. Nhà bác học Albert Einstein từng nói: “Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”. Chân lý tương đối thì nhiều, chân lý tối thượng chỉ một. Đó là điều mà khoa học hiện đại đang hướng đến.

Bầu trời chúng ta ngước nhìn, khoa học ước đếm có hàng tỉ ngôi sao. Mà trái đất chưa thể lớn bằng một ngôi sao. Phi thuyền của nhân loại mới chỉ bay đến một số ngôi sao gần nhất trong hệ ngân hà. Giáo lý nhà Phật môn mô tả, một dải ngân hà được gọi là đơn v thế giới. Cứ một ngàn dải ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy. Toàn giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốtquy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Phật khôngsáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.

Những công trình khoa học đem đối sánh với Kinh điển đã phần nào hé lộ chân tướng nhân sinhvũ trụ bí ẩn. Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở bắc bán cầu và nam bán cầu để đo từ trường của trái đất. Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của trái đất cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc những chiếc Boeing đâm vào tòa tháp đôi New York gây ra đại họa thảm khốc, mới vỡ lẽ. Một nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến từ trường trái đất. Khoa học hiện đại kết luậnvật chất vốn không có; vật chất chỉ là sự dao động trường. Theo tiến sĩ vật lý lượng tử củaĐại học Harvard John Hagelin (Giám đốc Liên Hiệp toàn cầu khoa học gia cho Hòa bình Quốc tế, là người đã phát triển lý thuyết "Trường đại thống nhất dựa trên siêu dây" của A.Einstein): “Ý niệm là dạng dao động sóng phát ra sẽ biến đổi từ trường, có thể ảnh hưởng cả một thành phố”. Còn chân tướng sự thật thì sao, theo lời dạy của các vị minh sư cũng như trong Kinh điển, mỗi ý niệm dầu nhỏ nhiệm là "nhổ một sợi lông chấn động toàn thân", nên một ý niệm của riêng mình có thể chấn động tận hư không khắp pháp giớiNăng lực của tâm quá lớn, thật ngoài sức tưởng tượng, thậm chí còn hơn cả bom nguyên tử như một thiền sư từng ví. Tâm chính là pháp giới.

Đức Phật dạy: "Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh". Kinh Kim Cang: “Phàm những gì có hình tướng đều hư vọng”. Đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm sáng thì khoa học không thể chứng minh điều ngược lại. Một giây con người phát xuất hàng tỉ ý niệm, thì còn gì trong tam thiên đại thiên là ngoại vi của Tâm. Theo Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1280 triệu ý niệm tế, cũng là điều mà khoa học ít nhiều nhìn ra. Ấy chính là vọng tưởng. Những học giả hàng đầu thế giới khuyên người đời nên nối mạng với làn sóng từ vũ trụ. Năng lượng thiện vốn sẵn trong trời đất, ta vừa mở tâm thiện lập tức nó ùa vào. Khoa học thấy giữa người với người đều “nối mạng” tư tưởng với nhau, không ai đứng độc lập giữa vũ trụ bao giờ; nghĩ ác thì hút vào năng lượng ác, sự chiêu cảm tự nhiên này thật đáng sợ. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ám chướng. Khoa học minh chứng được mức độ biểu cảm của nước. Kết luận nước có tri giác, hiểu được ý nghĩ con ngườitiến sĩ Masaru Emoto đã thí nghiệm hàng vạn mẫu nước. Nếu ta hòa ái với nước, bức ảnh chụp nước kết tinh đẹp như hoa tuyết; nếu khinh khi sân hận và sử dụng nước phí phàm, kết tinh chụp được xấu như một quả thối. Cơ thể người, nước chiếm từ 50 - 70%, là “nói” lên điều gì? Tác phẩm Vạn vật của Vũ trụ Hồng trầncủa giáo sư Eddington đưa ra một nguyên lý: “Nếu chúng ta loại bỏ hết các khoảng trống không trong thân thể con người và góp lại những chánh điện tử và điện tử của con người làm thành một khối, thì xác thân của chúng ta chỉ còn nhỏ bằng hạt bụi, phải dùng kính phóng đại mới vừa đủthấy mà thôi”. Ngạc nhiên chưa. Nước có biểu cảm, có “kiến, văn, giác, tri”; nước hiểu sâu sắc ý nghĩ và mọi ngôn ngữ trên hành tinh. Thậm chí cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Namquán tưởng yêu thương hay hờn giận, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối ứng với niệm của người đã quán tưởng; tức không gian bị xóa.

Một thiền sư Ấn Độ khuyên nhủ: “Nếu người đó thật sự có điều xấu mà con nghĩ, thì con đang làm cho nó mạnh hơn và nuôi dưỡng tính xấu đó; và như vậy con đang làm cho bạn con trở nên xấu xathay vì tốt lành hơn”. Liễu nghĩa ấy, chúng ta sẽ luôn nghĩ thiện về tha nhân để họ được tốt. Đó cũng chính là nước trong ta lên tiếng đòi “nhân quyền”. Nước biết được đáp án là công trình vĩ đại; Masaru Emoto nhận xét: “Tâm của bạn tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ tốt; tâm của bạn không tốt,vạn vật tự nhiên cũng sẽ không tốt”. Đời sống thực vật cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người. Một kẻ cầm dao chặt cây, từ trường đo được méo mó chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đốikhông ủng hộ thí nghiệm này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong sát-na trùm phủ khắp hành tinh.

Đầy ắp những câu hỏi tại sao đời sống ngày được nâng lên, lại nảy sinh quá nhiều vấn nạn xã hội. Điển hình như Y học đang phát triển tột bậc, con người vẫn mắc rất nhiều bệnh quái gở và bệnh viện mọc lên càng nhiều. Nói một cách đơn giản, là bởi con người ngày càng đánh mất nền tảng, chủ yếu về mặt tinh thần. Trước hết, nền tảng đạo đức phải được gây dựng từ nhỏ, thậm chí cầngiáo dục từ lúc còn thai nhi như cái nhìn sáng suốt của bậc thánh hiền xưa. Khoa học hiện đạiphần nào phát hiện ra lý này, cho thấy mỗi ngày trong bào thai bằng hàng chục triệu năm tiến hóasinh vật và trọng lượng cơ thể biến đổi tăng lên hàng tỉ lần, để thấy một ngày giáo dục thai nhibằng rất nhiều năm trời đứa bé lúc sinh thành. Nền tảng đạo đức có từ lúc còn thai nhi sẽ giúp sinh mệnh đó giữ được phẩm chất cốt tủy của đời người, luôn hướng đến hai chữ Hòa Bình từ nghĩa hẹp cho đến nghĩa rộng là đối lập với Chiến Tranh. Đức Đạt Lai Lạt Ma, bậc Thánh thời nay, với tư cách là người học trò thuần thiện của Đức Phật từng khuyên mọi người hành thiện, hướng đến một thế giới bình đẳng bao dung, đúng như thông điệp chư đại đức từng dạy: “Chúng ta cùng là con người, không phân quốc giachủng tộctôn giáo, đều phải bình đẳng thương yêu lẫn nhau”. Ngài cũng nhắc nhở: "Những gì ông cha (tức cổ đại đức, trong đó có Đức Phật) nói với chúng ta là hoàn toàn sự thật".

Đức Phật không biện chứng sao thấy được tám vạn bốn ngàn vi khuẩn trong nước? Hồi đó người đời không tin. Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm trong niệm (một dạng sóng), nghe vậy người người cho viễn vông. Nay khoa học bắt được sóng, sử dụng sóng khiến thế giới trở nên nhỏ hẹp. Niệm Phậttrì chútụng kinh cũng là sóng, còn là sóng cực mạnh, cực lợi dưỡng thân tâm. Tâm vốn tạp, vốn không một khắc ngưng nghỉ sự dao động niệm xấu ác. Ta không tác ý nó vẫn tự niệm. Nếu tác ýniệm thiện, sẽ tạo nên tương lai thiện, tác ý niệm ác thì ngược lại. Nếu không tác ý thì nó sẽ tự niệm theo tập khí, theo nghiệp lực từ thói quen trong kiếp này và cả từ tiền kiếp. Ta không niệm Phật, tâm sẽ tự niệm chín cõi còn lại, mà dễ vào nhất là niệm tham sân si. Mỗi giây, vô biên ý niệmtừ nhân loại phóng ra, thành một dạng sóng ùa vào alaya mỗi cá nhân, song ta chỉ nhận biếtkhoảng một phần tỉ nhờ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Thử ví dụ: một lần tôi đang nằm ngủ, mơ thấy người bạn xin số di động của Q. Tôi từ lâu đã nhớ số Q liền đọc cho họ. Mới đọc được bốn số 0914..., bỗng chuông điện thoại reo. Tôi giật tỉnh, dựng dậy chộp điện thoại; lạ không, Q đang gọi. Có nghĩa, trước lúc Q bấm gọi cho tôi, đã nghĩ về tôi, đã phóng ý niệm về tôi (lúc tôi đang ngủ); ý niệm đó liền khởi động tâm thức trở thành cơn mộng (mơ thấy tôi đang đọc đúng số điện thoại của Q cho người xin số). Trong một giây biết bao ý niệm như vậy xuyên vào alaya, ta lại không hề nhận biếtĐơn giản bởi tâm ta quá loạn. Nếu tâm trong lặng tịnh tĩnh, ai đó vừa nghĩ đến mình đã biết ngay. Còn cao hơn, chân tâm ấy sẽ như ngôi nhà không cửa, ý niệm trôi qua chẳng hề mảy maygợn sóng, nên không bị nghiệp lực chi phối (từ những ý niệm hữu/vô tình phóng qua). Hoặc đó là những người chuyên đặt tâm vào quán hơi thở, chuyên lần theo một câu chú, câu Phật hiệu, tâm lần chữ nào tai nghe rõ chữ đó, từng câu nối thành chuỗi, từng chuỗi nối nhau nên không ý/vọng niệm nào xen ngang. Gọi vọng tâm là bởi tâm ấy chứa nhiều tạp niệm, chứa nhiều sự chấp trướcvà phân biệt cảnh trần dựa trên ô ngăn nghiệp thức. Những dòng sau đây của Lama Anagarika Govinda, nguyên là giảng viên Triết học tại Đại học Naples: “Mantra hay Hồng danh Chư Phật, hayHồng danh Phật A Di Đà, được niệm lên với tất cả sự thành kính, được niệm lên nhiều lần, được niệm lên qua năm tháng. Ngữ điệu, âm thanh,... là những dao động. Tần số Linh thiêng này, như một nguồn cưỡng bức điều hòa, làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức; hòa nhập cùng Tần số Linh thiêngHiện tượng Hòa Tần số xảy ra. Tạo nên sự hòa nhập Thân, Tâm với Vụ trụ. Phật tánh Hiển lộNiết bàn xuất hiện”. 

Con người ngày bị bủa vây bởi thông tin, hiện tượng nghiền lướt web đã khiến Tinh Thần bị nhiễm độc, trí phán đoán sụt kém; biến mình thành một dạng đài thu phát sóng những thông tin đa phầntrái với Thập thiện, khiến thời không nhiễu loạn, xã hội thêm động. Là điều mà các nhà khoa học kêu gọi nhân loại hãy nghĩ thiện hành thiện để tránh thiên tai địch họa; đây là điều chưa phổ cập vì ngay cả trí giả thời thượng cũng chưa tin, rằng sóng tư tưởng còn lợi hại vạn lần những thứ sóng kiểu như internet, điện thoại kết nối toàn cầu. Sự kết hợp giữa hai loại sóng này sẽ gây lên những căn bệnh xuyên thế kỷ, y học càng bất lực.

Kinh điển Phật pháp là phác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy. Một cao tăng từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho, Đạo. Cái "Không" (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo Đức Kinh của Lão Tửrất gần với Tánh Không trong Bát Nhã. Tuy xét từ ý kinh Hoa Nghiêmtrộm nghĩ Lão Tử cũng là Bồ tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Điều nhiệm màu luôn khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa. Học Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ai phải gánh?). Vui, mọi người nhìn vào liền bảo: ờ, học Phật quả lợi ích. Mọi pháp Phật thuyết đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ. Cùng bệnh cùng thuốc song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật đưa ra: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Laichỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Đạo chỉ cần buông vọng tưởng chấp trước. Khoa học minh tường, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn baoý nghĩ (chưa nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người dốc sức bửa củi ngoài sân. Nhiều vọng tưởng cần ăn nhiều đồ bổ bù lại sức, ít vọng tưởng cơ thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị chân sư chỉ ăn ngày một muỗng cơm. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần ác mộngmơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt hồ. Bớt vọng tưởng, bèo liền dãn ra, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm. Khoa học kiểm chứng vọng tưởng là kẻ thù tiêu hao năng lượng, lại không cách gì trừ diệtchuyển hóaTịnh độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất cứ lúc nào không vướng việc nghĩ suy, trong tâm đều vang lên hồng danh, một thời gian vọng tưởng khắc thưa bớt, mất năng lượng. Đây là điều kỳ diệuTỉnh giác trong mọi lúc mọi nơiGiả như phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, họ tùy duyên nâng ly “khai giới” hòa đồng mà trong tâm thì niệm “A Di Đà Phật”, vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã.

 Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa thượng tầng triết học huyền nhiệm tôn giáo. Mê khoa học, ít ai ngờ chính mình lạc hậu về khoa học. Nhiều công trình chứng minh sự tồn tại của alaya đằng sau xác thân tạm bợ, và nhiều khoa học gia còn khẳng định về sự luân hồi đầu thai Phật đưa ra hoàn toàn đúng. Nếu ai lấy một triết gia, một nhà văn lẫy lừng hay siêu sao làm thần tượng, bất chấp đạo lý, loay xoay cố vươn cho bằng họ để “đứng trên mọi người” thì âu là sự tụt hậu thảm hại. Phải hướng vào nội giới. Câu khắc trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes: “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết vũ trụ và các vịThượng ĐếNếu không khám phá nội giới thì cũng bằng ta đang lấy ngao lường biển, “nhún dâytư tưởng vào cõi vô tận”. Chúng ta không hành Pháp, lại chuyên soi Phật bằng trí, dễ nhìn nhậnthái tử Tất Đạt Đa và vua Trần Nhân Tông là những hiện tượng chán bỏ trần gian; thiền sẽ làm mấtcảm xúc và theo đó Phật giáo phiêu du trong một cõi quá xa biệt hồng trầnĐạo Phật vốn là nềngiáo dục uyên sâu. Phật là người chỉ ra “chư pháp thật tướng”. Lượng tử lực học mở ánh nhìn ra ngoài thế giới, đã thật sự ngạc nhiên bởi những khám phá vĩ đại thực ra vô tình minh chứng lờiPhật thuyết ba ngàn năm trước. Ở đây không dám bàn đến những triết lý siêu việt trong Kinh điển, chỉ nói đến giáo dục nhân tâm thôi Đức Phật đã xứng danh Thầy Giáo vượt lên mọi thời đại. Nhiều vị cao tăng thời hiện đại rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồngquy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để họ kiến tạo tương lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộcvào phước đức, căn mạng từng người trong sự cộng trừ nhân chia liên tục của ý niệm và hành vithiện hay ác. Một nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem bỗng giật mình: Ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước vẽ nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, “Phật do tâm sanh”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn với ý nghĩ và hành động tham, sân, si (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới u tối ở kiếp sau). Đáng lưu tâm: nguyên lý trên dễ đưa con ngườilệch đạo. Những mơ ước vật chất đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường tắt đưa đến khổ đau và họ càng bước càng lún sâu vào đất như ý một câu trong kinh Địa TạngÝ niệm phát xuất liền châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệmcực xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quyệt, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là tâm chỉ một câu kinh mà niệm, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; cá thể ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý hiếm giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh rọi vào.

Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùngÝ niệm như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện một chỗ hư, mới hay lòng cột đã ruỗng. Thân tâmta cũng sẽ mục bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ "nhấm nháp" mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt; ấy là bộ mặt củatưởng ấm maNiệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý khởi lên liền thay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược đặc trị phiền não, tâm tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiếtChuyên tâm niệm Phậttâm sở thiện và bất thiện đượcquân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện suy yếuCông phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng huyền nhiệm. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “không biết” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật chữa lành bệnh nan y kể không hết. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thầnbằng việc hướng vào nội tâm, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ quán thấy trong tâm, trongý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh. Theo Phật lý, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánhLục tổ Huệ Năng: “Tự tánhhằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại “không” thì dạng vọng tưởng kia dần tan. Bởi vậy một người có khối u, nếu quá nặng nề lo lắng, khối u phát triển càng nhanh. Tập quên nó, sống vì niềm vui của người khác, chuyên niệm Phật, tiết thực. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỉsung mãn lợi tha. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ được. Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi nhà tranh ọp ẹp, muốn nhập Niết Bànrồi trở lại nhân gian thay một cái nhà bê tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử ngày đêm tha thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, thế là những ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy cònđiều chỉnh được cả tinh cầu. (Vấn đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu dễ lạc trong ma đạo như Phật từng nhắc trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh Thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh giới cao thâm. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” dễ tam thế Phật mắc oan!).

Xét về Y học, Đức Phật cũng là Đại Y Vương, bởi Ngài biết gốc của bệnh, và đưa ra phương phápchữa tận gốc, tức cơ bản chữa Tâm. Bệnh xuất phát từ công việc đặc thù, từ sự tùy tiện trong ăn uống, và bệnh dĩ nhiên xuất phát trước hết từ Tâm nhiễn độc vọng tưởng trái với đạo lýLời Phật dạy chưa dễ tin thì nay khoa học cũng minh tường: người ăn chay luôn ít bệnh và minh tuệ hơn người ăn mặn. Kịch tác gia Bernard Shaw (1856-1950) Nobel văn học năm 1925; bài thơ "Những ngôi mộ sống" của ông lan truyền khắp thế giới: “Trước Trời Phật, trên nấm mộ sinh sát/ Của muôn loài vô tội ta cầu xin/ Ban ơn lành, khi Luật Đạo Đức kia/ Ta xé nát mà không hề thương tiếc/ Và như thế ta gieo nhân tội ác/ Của Chiến Tranh cho nhân loại toàn cầu”. Rất nhiều lời khuyên từ những công trình khoa học uy tín nằm trong chương trình phát triển của xã hội người trên thế giới, rằng ăn thịt là một sai lầm. Theo sách Zen và dưỡng sinh: “Ăn thịt cá nhiều quá tánh tình trở thànhồn ào, tâm trạng rất tầm thường”. Sữa động vậtthiển nghĩ cũng như một dạng hoa quảchúng tahái đi (cây có đau, có buồn) song không ảnh hưởng đến sự sống của cây); đã có nguyên một công trình so sánh giữa ly sữa động vật với ly sữa đậu nành. Kết quả hàm lượng dinh dưỡng của ly sữa đậu nành (mà nhu cầu cơ thể cần) gấp ba lần ly sữa động vật. Mặt khác, khi con vật bị giết, nỗi sợ hãi tột cùng khiến chúng tiết ra một loại độc tố. Chất bổ dưỡng như thịt bò, các loại cá thịt, sữa, đường… là thức ăn chính của con ung thư; chỉ cần người bệnh khước từ những thứ đó, ăn thuần rau củ, tiết thực, con ung thư không có thức ăn sẽ yếu dần. Hay theo thực đơn Ohsawa. Gạo lứt nấu trong nồi gang, kiên trì ăn với muối mè sẽ lành bệnh như phép màu. Bây giờ khoa học hiện đạiphát hiện: đường là một thảm họa của nhân loại, dần phá hoại não trạng và bại hoại thân thể, cũng như mì tinh đánh lừa vị giác. Sự kết hợp giữa kiên trì nhai kỹ gạo lứt muối mè kết hợp hành trì tâm linh sẽ khiến cho cái tâm vọng trở nên chừng lặng, sự dao động sóng bớt sẽ khiến thân an hòa.Tâm lý người bệnh luôn sợ chết, đây là điều chỉ có thể giải quyết ở Tâm. Mỗi ý niệm sợ chết phóng ra, con vi rút trong họ có nhiên liệu sống mãnh liệt hơn. Nếu là người cùng hiểu đạo lý thì chẳng sao (bởi khi ta khai bệnh, họ sẽ biết xóa ngay thông tin đó); ngược lại với người không thấm nhuầnpháp, họ sẽ khắc chạm căn bệnh của ta vào não trạng, ngày nào cũng phát ý niệm: “gay rồi, bệnh ấy nguy rồi, khó lành, khó qua khỏi rồi…”. Ta lo sợ, bệnh càng nặng đã đành; hễ “khối u” trong ta nhiều “fan hâm mộ” nó càng có lý do sinh tồn. Mức độ xóa thông tin thuần thụcquyền năng tối thượng làm việc cực kỳ hiệu quả. Sự vui sự buồn vừa ập đến liền như tảng băng ném vào lửa. Tâmtrở về bình lặng. Trong bất cứ chúng sinh nào cũng đều có chủng tử Phậtvĩnh viễn không tàn lụi dẫu trôi qua lục đạo vô lượng kiếp. Có một phần đúng trong câu mang tầm triết lý nhân sinh: "Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Nhưng có hai điểm hạn chế lớn: thứ nhất nó chỉ bàn đến con người; quan trọng hơn, tổng hòa các mối quan hệ xã hội chỉ tạo nên tập tánh chứ không phải bản tánh (vốn tự có sẵn trí huệ).

Con người là sự kết hợp hoàn hảo giữa vật chất/thân xác và vật lý/tinh thần. Phần Vật Chất do ăn uống sai lầm tức không tuân theo quy luật vận hành của vũ trụ vốn thống nhất trong sự tương hỗhai mặt Âm - Dương. Đừng nghĩ ăn uống là tầm thường. Ăn uống chay tịnh đúng với trật tự vận hành của vũ trụ theo nguyên lý triết học viễn đông có thể chuyển nghiệp lực và vận mạng. Người Kogi sống theo với quy luật tự nhiên/vũ trụ, thì chính là sống đúng với đạo Pháp. Đó là biết đạo trời đất. Không gian bộ tộc Kogi sinh sống tuyệt đối an ổn. Nhưng, nếu ta đặt một phàm phu vào đó chung sống, hẳn họ lại thấy nơi đây là một thiết chế bất ổn. Vậy mới thấm câu thơ của cụ Nguyễn: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm tùy cảnh chuyển. Tâm tịnh thời cõi Phật tịnh, và ngược lại… Tâm nhiễm là tâm bất định. Tâm bất định thì thân bất định. Người ấy sẽ khó sập giác quanngồi yên cho được. Còn bậc chân tu ngũ căn thông suốttrần cảnh không khiến tâm dao động nên họ luôn định tĩnh sáng suốt. Những tiện nghi tưởng sẽ đưa con người tới an lạc, sau một thời giannó lại khuấy đảo tâm. Có những người xây WC rất tiện nghi và phát ngôn là nơi đưa lại cho họ sựan tĩnh. Nếu vậy thiết tưởng lên núi sống một mình còn... bình an bội phần. Con người với tâm không định thì có chui vào lô cốt cũng khác chi ở chợ trời. Tâm địnhcông phu có được này cơ bản bắt nguồn từ việc “không nhìn lỗi thế gian”. Giới khoa học đưa ra một kết luận vô cùng quan trọng: không nên chống chiến tranh mà hãy ủng hộ hòa bình. Từ đây triển khai ra ở mọi hoạt động trong cuộc sống sẽ chuyển được nghiệp nạn. Ai đó từng chống chiến tranh, không có nghĩa bây giờ phủi tay, mà dành thời gian và tâm sức đó ủng hộ hòa bình. Tại sao? Bởi quy luật vận hành của vũ trụ là như vậy.

Do tích tập từ nhỏ, tâm lý chung thích gom chuyện xấu ác. Chuyện xấu ác luôn là nhiên liệu trong các cuộc trò chuyện, đàm đạo. Chuyện xấu ác còn có tên gọi khác là rác rưởi. Một khi chuyện xấu được ta hứng khởi thuật lại nhiều lần trước đám đông, hãy xem chừng, bởi rác ấy đang lưu cửu vào tâm thức. Theo đà này, theo thời gian tâm thành một thùng rác khổng lồ. Phật từng khuyênchúng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá (khéo giữ gìn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi người khác). Đạo lý này sâu xa quá đỗi. Ở mặt bằng xã hội, người ta sẽgay gắt phản biện trước thảm kịch cái ác ngày càng lên ngôi, mà không đặt ngược câu hỏi: Nếu tất cả người trên hành tinh xanh đều không ngó lỗi nhau mà chỉ xiển dương điều thiện, thế giới sẽ ra sao? Con người là một cá thể riêng biệt - lý thuyết này đối với khoa học hiện đã lỗi thời. Mỗi cá thểnhỏ bé đến mấy cũng có mối liên hệ mật thiết với vũ trụ bao laVạn vật đồng nhất thểHọc giảJames Gleick có nhận định rất triết lý qua hình ảnh: “Một cái đập cánh của con bướm hôm nay ở Bắc Kinh sẽ tạo ra trong không khí các cuộn xoáy có thể biến thành bão tố trong tháng sau tại New York”. Sự chống đương nhiên có lợi, chỉ là lợp bất cập hại. Các vị đại đức lúc giảng kinh thuyết pháp nhiều lúc cũng nặng nhẹ với đệ tử; người tự cao thấy cảnh “lánh đời” sẽ gán ấy là “chốnghồng trần tươi đẹp. Đâu hay hành vi lời nói của các Ngài lưu xuất từ gương tâm trong suốt không mảy bụi trần. Còn “chống” - hành động nô lệ của ý niệm xấu từ lượng tâm ích kỷ nhỏ mọn, sẽ khiến thời-không thêm nhiễu loạn. Sự chống ấy cũng như luồng khí nóng tưởng sẽ làm cơn bão đang tiến vào suy yếu chẳng ngờ càng góp sức cho bão.

Những gì người trần mắt thịt chúng ta chứng kiến quá ư hạn hẹp; cho trên đầu không có gì càngthiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định luân hồiNgày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ xíu. Chớ tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân con kiến ở kiếp vị lai. Cũng như loài vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Một khám phá khoa học: Tấm hình cắt đôi; đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này minh tường một câu trong kinh Hoa Nghiêm: "Nhất tức nhất thiết" (một là tất cả). Cá thể chúng sanhcó Phật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông vọng tưởngphân biệt và chấp trước sẽ hoàn nguyên, trọn đủ tánh đức và trí huệ tuyệt vời.

Chưa nghiêm túc học giáo lý, không chọn lấy một Pháp môn rốt ráo thực hành đã khởi tâm bài Phật là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương

Không ai có đôi mắt sáng lại nhắm mắt mà đi. Tuy nhiên mắt sáng cũng không thể nhìn thấu kiếp mình nếu tâm thức mù lòa.

Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bầu dục”,… đúng nhưmô tả về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức loài người đơn giản là vô tình minh tường một số lá cành trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc ta tin lời Đức Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8091)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20498)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19495)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18378)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16219)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15915)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19006)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14263)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9606)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8684)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8185)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8876)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10948)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9079)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8870)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7941)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9069)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35572)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8549)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15049)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8681)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15253)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9143)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8827)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9344)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8440)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10289)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7655)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9516)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7508)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17212)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14991)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9491)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20876)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9205)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7160)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17663)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17612)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25776)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7806)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9888)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7262)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9642)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8122)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9077)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7406)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8740)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7912)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8317)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7504)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8687)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8139)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8876)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7286)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 13977)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7090)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10321)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7659)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8471)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10083)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant