Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luân Hồi Trong Kinh Lăng Nghiêm

30 Tháng Sáu 201823:14(Xem: 6813)
Luân Hồi Trong Kinh Lăng Nghiêm

9.Bia Lang Nghiem-TN Gioi Huong
MỤC LỤC

 

Lời cho lần tái bản thứ 5 

Lời đầu................................................................................. ii

Chương I: Bối cảnh Phật giáo................................................ 1

Chương II: Nhân duyên  nói kinh....................................... 20

Chương III: Gạn hỏi cái tâm ................................................ 30

Chương IV: Hai cội gốc thường trụ và lưu chuyển…..…40

 Chương V:Thiết lập hai điều nạn hỏi................................. 70

Chương VI: Pháp Sa-ma-tha............................................... 126

Chương VII: Giới thủ lăng nghiêm................................... 164

Chương VIII:Năng lực thần chú....................................... 199

Chương IX: Mười hai loài chúng sanh............................. 206

Chương X:Ba tiệm xứ......................................................... 236

Chương XI: Những tập khí sanh ra bảy đạo.................... 262

Chương XII: Mười tập nhân địa ngục.............................. 279

Chương XIII: Sáu giao báo................................................. 301

Chương XIV: Cõi tiên, Trời và A-tu-la.............................. 337

Chương XV: Kết khuyến..................................................... 359

 

 

LỜI TÁC GIẢ CHO 

LẦN IN THỨ NĂM, 2018

 

Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức, Tp. HCM, Việt Nam.

Trong lần in thứ năm này, tác giả vẫn giữ lại nội dung như lần đầu ra mắt. Tuy nhiên, để sách hữu dụng và phục vụ tốt hơn, kỳ này nhiều lỗi được chỉnh sửa, có thêm hình xen kẽ, thuật từ Pali với Phạn được đính kèm, và có thêm phần tóm gọn và các câu hỏi đàm luận ở cuối mỗi chương và đặc biệt sách được chuyển ngữ sang tiếng Anh “The Rebirth Views in ŚūraṅgamaSūtra”.

Tác giả muốn đặc biệt tri ân Tỳ-kheo-ni Viên Quang đã giúp tác giả trong việc trình bày, xuất bản cũng như phát hành sách.

Trường Đại Học Riverside, Tiểu bang Cali, Hoa Kỳ

Mùa thu, ngày 07 tháng 10 năm 2017

Bhikkhunī Tiến Sĩ TN Giới Hương

 

Lời giới thiệu

   Sách “ Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” 

của Ni sư Thích Nữ Giới Hương biên soạn

 

Tôi được một phước duyên là quen biết với nhiều kinh sách. Đây là những người Thầy, người bạn rất thân thiết, thân thiết hơn cả những người thân trong gia đình hay bạn bè thân nhất của mình. Vì những người thân của mình muốn gặp cũng phải hẹn nhau trước, còn kinh sách thì mình tha hồ mà gặp gỡ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Sáng, trưa, chiều, tối hay giữa đêm khuya thanh vắng với ánh trăng vàng tỏ rạng bên song cửa sổ nơi thiền thất, nếu ta muốn sách sẽ ở ngay trước mặt ta, thật là tự tại thoải mái vô song! Cần gì, cứ giở kinh sách ra là có ngay câu trả lời. Còn đúng sai, tốt xấu là do mỗi người tự gạn lọc lấy để làm chất liệu dinh dưỡng tâm linh cho mỗi người trong chúng ta. Sách, kinh vốn không có tội tình gì cả. Nếu có, chỉ do người hiểu và xử dụng sai mụdac đích mà thôi.

Từ việc ham đọc kinh, sách sinh ra việc viết sách, dịch kinh, viết lời bàn hay những truyện ngắn, truyện dài nên được nhiều người quen biết và từ đó có nhiều người nhờ tôi viết lời giới thiệu sách do họ viết hay dịch thuật. Và họ là những Tăng Ni, có khi là những người thế tục, trong đó có Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Ni sư nhờ tôi viết lời giới thiệu cho lần tái bản quyển “Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” này. Đây là tác phẩm thứ 9 của Ni sư và đã được xuất bản lần đầu tiên năm 2008, đến nay trải qua 9 năm đã tái bản đến 4 lần và mỗi lần xuất bản chắc không dưới 2.000 quyển. Độc giả đa phần ở Việt Nam và một vài nơi trên thế giới. Tái bản lần nầy Ni sư nhờ tôi viết lời giới thiệu, nên tôi phải cố gắng đọc gấp trong hai ngày, mỗi ngày 6 tiếng đồng hồ. Thông thường với những quyển kinh, sách dày chừng 356 trang như quyển nầy, tôi chỉ cần đọc trong 3 đến 4 tiếng đồng hồ là có thể gấp sách lại được, nhưng vì Ni sư có nhờ tôi xem kỹ, cũng như có thể điều chỉnh lại một vài lỗi chính tả, nên phải tốn nhiều thời gian như vậy. Tuy không có lỗi nào đáng phàn nàn, chê trách, nhưng vì nội dung của Kinh quá thâm sâu, nên tôi phải cần có nhiều thời gian để đọc và chiêm nghiệm lâu như vậy.

Đọc lời tựa của lần xuất bản thứ nhất cũng như tái bản lần nầy, chúng ta thấy Ni sư đã học Kinh nầy từ Ni Trưởng Hải Triều Âm trong những năm 1984, 1985. Sau đó Ni sư còn học 4 năm tại Học viện Vạn Hạnh, rồi sang Ấn Độ ở hơn 10 năm để lấy bằng Tiến sĩ Văn học Phật giáo tại đó. Kế tiếp là 10 năm học ở Đại học tại Riverside Hoa Kỳ, để rồi hôm nay đang đứng trên bục giảng của Đại học Phật giáo tại Việt Nam, trao truyền những kiến văn mà mình đã thu thập được qua việc tu, học trong hơn 30 năm qua cho các Tăng, Ni Sinh trẻ. Thật là một phước báu vô ngần. Không dừng lại ở đó, Ni sư còn dịch quyển sách nầy ra Anh văn nữa. Đây cũng có thể nói là sự tiến bộ đầu tiên của Ni giới Việt Nam, kế tiếp con đường văn hóa của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải đã kinh qua. Riêng tôi rất vô cùng hoan hỷ để viết nên lời giới thiệu nầy.

Để đi vào nội dung của 15 chương sách, đầu tiên chúng ta có thể lưu ý qua hình thức trước. Những chữ in đậm là lời Kinh đã được Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch từ Hán Văn sang Việt Văn, nguyên tác của Ngài Bát Thích Mật Đế dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. Bác sĩ Tâm Minh dịch quyển nầy và diễn giải thành 2 tập gồm 10 quyển, nhưng ở đây Ni sư chỉ chú mục vào phần gạn hỏi tâm, sáu căn, sáu trần và sáu thức cũng như việc giữ giới sẽ sanh định, định sanh tuệ. Tiếp theo nói về 12 loài chúng sanh do 3 thời quá khứ, hiện tạivị lai nhân cho  4 hướng Đông Tây, Nam Bắc để có con số 12 nầy. Chương nầy rất đáng đọc. Vì lẽ Ni sư vừa học Nikaya vừa học tinh thần Kinh điển của Đại Thừa, nên những mẩu chuyện được kể lại theo những câu chuyện đã được học, được nghe qua, rất thâm trầm, ý vị. Từ đó có những dẫn chứng rất khoa học và khúc chiết.

Phần trong ngoặc gồm chữ Phạn và Pali là do Ni sư sưu tầm. Phần chữ nghiêng dùng để chú thích những gì muốn làm sáng tỏ thêm ý câu văn ấy. Ngoài ra còn những chú thích bên dưới những trang sách về những phần đã dẫn chứng bên trên. Đây là lối mà những học giả thường hay ứng dụng khi dạy học hay viết sách, dịch kinh. Phần chữ lợt hơn là những lời bàn hay giải thích nội dung của đoạn kinh văn vừa trích. Như trong phần mở đầu Ni sư có gởi gắm đến độc giả là chỉ thực hiện một phần nhỏ về luân hồi trong Kinh Lăng Nghiêm mà thôi, những phần nghiên cứu khác về Lăng Nghiêm chắc chúng ta phải chờ quyển 2, quyển 3 mới có thể đọc hết tư tưởng của Kinh Lăng Nghiêm được.

Về nội dung thì quá tuyệt vời qua những dẫn chứng về Tâm và Tánh. Thể của Tâm là Diệu và Tánh của Tâm là Minh. Tâm của chúng sanh vốn bị vô minh phiền não che đậy, còn Tánh của Tâm vốn sáng suốt hoàn toàn, nếu chúng sanh dựa vào Sa Ma Thatu chứng Tam Ma Đề thì Phật và chúng sanh là một chứ không có khác. Điều nầy nó cũng giống như sóng và nước. Sóng không phải là nước, nước không phải là sóng, nhưng cả hai đều có một tánh ướt là chung. Với tánh ướt đó, Phật đã thành Phật từ lâu rồi, mà chúng ta vẫn còn mãi mê trong vòng sanh tử, vì chưa nhận ra được tánh ướt của mình. Mỗi khi tụng Kinh chúng ta hay xướng lên rằng: Phật, chúng sanh Tánh thường rỗng lặng…là ở ý nầy. Phật không khác chúng sanh, chỉ có chúng sanh khác Phật mà thôi. Chúng sanh là do nghiệp báochánh báo mà hình thành, còn thế giới nầy là Y báo. Y Chánh có trang nghiêm hay không là do nơi chúng sanhvứt bỏ được màn vô minh hay không để trở về lại với Phật Tánh chứ không phải do Phật. Phần đầu Đức Phật gạn hỏi Tâm của Ngài A Nan qua 7 lần cũng vì cái Tánh nầy. Khi đã rõ biết được ngôi nhà tâm linh của 6 căn rồi, nhưng không biết làm sao để mở cửa vào, nên Ngài A Nan đã đại diện cho chúng sanh để thỉnh Phật dạy tiếp.

Sáu căn ấy chính là sanh tử, mà sáu căn ấy cũng chính là Niết Bàn tịch tĩnh. Nếu chúng sanh tu chứng được Tam Ma Đề của Đức Phật dạy thì mới có thể trừ ba Tiệm thứ được. Trong 12 bộ Kinh như: Trường Hàng, Trùng Tụng, Thọ Ký, Cô Khởi, Vô Vấn Tự Thuyết, Nhân Duyên, Thí Dụ, Bản Sanh, Bản Sự, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Nghị Luận đã được Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư phân chia ra làm 5 thời giáo của Đức Phật, mà tác giả đã giới thiệu rất cặn kẽ rồi. Mong Quý độc giả cứ từ từ thâm nhập thì sẽ thấy những quan điểm của Đại Thừa được làm nổi bật qua những chứng minh trong Kinh Lăng Nghiêm nầy. Ngay cả tư tưởng Tịnh Độ qua phần tha lực niệm đến danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, cũng đã được Ni sư gửi gắm trong những trang sách nầy.

Đến phần nội phận là tình, ngoại phận là tưởng, Ni sư cũng giúp cho độc giả nắm bắt dễ dàng ý kinh hơn. Ai tình nhiều tưởng ít thì sau khi lâm chung thần thức sẽ đi xuống, ai tưởng nhiều tình ít thì thần thức sẽ đi lên. Ai tình và tưởng bằng nhau thì sẽ tái sanh trở lại làm người. Tiếp đến nói về quả báođịa ngục, có 10 nhân và 6 quả để lãnh thọ hậu báo nầy. Kế đó  là những dư báo của chúng sanh trong nhiều kiếp trước. Tác giả cũng đã nêu ra những câu chuyện của Bửu Liên Hương Tỳ Kheo Ni phạm giới dâm hay câu chuyện của Vua Lưu LyTỳ Kheo Thiện Tinh (xin xem thêm ở Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 2 thì sẽ rõ hơn). Tất cả chỉ là sự kết đọng của vọng tưởng giả dối. Nhân đây Phật dạy cho phép Sa Ma ThaĐức Phật cũng nhấn mạnh rằng chỉ khi nào có Phật ra đời thì mới có thể trừ khỏi được.

Chương thứ 14 nói về cõi Tiên và Trời A Tu La. Từ 6 cõi Trời của Dục Giới lên đến Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ ThiềnNgũ Tịnh Cư của Sắc Giới cho đến 4 cõi của Vô Sắc Giới, tác giả đã diễn giải rất rõ ràng. Cuối cùngcõi A Tu La vừa là Thiện Thần mà cũng vừa là Ác Thần. Chương thứ 15 là chương kết của quyển sách nầy, Ni sư đã tóm gọn lại tất cả bảy loài chúng sanh (Trời, Tiên, A Tu La, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh) đều xa rời tánh giác, vì không thực hành Sa Ma Tha và nếu bỏ đi được 3 hoặc (sát, đạo, dâm) thì sẽ thấy được Phật Tánhcuối cùng Ni sư tóm gọn lại rằng: “Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” có những điểm chính là nói về sát, đạo, dâm và ngược lại với những điểm nầy là làm sao từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ bỏ tà dâm để nhận ra được tánh Phật của mình.

Nhìn chung thì đây là một quyển sách đáng đọc, lại do một Ni sư học thức bình chú và quý độc giả cũng nên làm quen với sách nầy trước khi đọc “Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông”  của Ngài Nhẫn Tế Thiền Sư gồm 2 quyển, dày độ 2685 trang hoặc “Giảng giải Chú Lăng Nghiêm tập 1 và tập 2”  do Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng tại Vạn Phật Thánh Thành và Thượng Tọa Minh Định đã dịch ra Việt ngữ rất trôi chảy. Riêng tôi đã căn cứ nơi Phật Học Phổ Thông của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa quyển 6 và quyển 7, mỗi quyển gồm 8 bài và tôi đã giảng trong nhiều năm như vậy, ít nhất cũng trên 40 lần giảng và mỗi lần độ một tiếng rưỡi đồng hồ. Đồng thời quý vị cũng có thể tham cứu thêm quyển “Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ” của Ngài Hàn Thị sớ giải và Ni sư Thích Nữ Thể Dung đã dịch giải rất tuyệt vời qua gần 1.000 trang kinh được xuất bản tại Việt Nam vào năm 2008. Quý vị có thể tham cứu trên những trang mạng để xem, nghe và bổ túc thêm cho những gì cần hiểu.

Tôi rất hoan hỷ để đọc tác phẩm nầy của Ni sư Giới Hương, vì đây là món quà quý giá nhất so với những món quà tinh thần khác. Bởi lẽ: “Nếu người ta có tiền, người ta có thể mua được một vài quyển sách, nhưng người ta không thể mua sự hiểu biết được “(If you have some money, you can buy some books, but you can not buy your understanding). Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm giá trị nầy đến với Quý độc giả khắp năm Châu.

Viết xong vào một sáng mùa Thu tại Tu viện Viên Đức, Ravensburg thuộc miền Nam nước Đức 

Ngày 14 tháng 10 năm 2017.

Thích Như Điển - Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover và Tu Viện Viên Đức, Ravensburg, Đức Quốc.

 

 

LỜI ĐẦU

 

Có một đêm, Đức Phật (Buddha)đứng lặng lẽ trầm mặc bên dòng sông bạc. Tôn giả Xá Lợi Phất (śāriputra, Sāriputta)cũng đứng phía sau và nhìn xuống ánh trăng lung linh óng ánh trên mặt nước, bất giác tôn giả buồn bã than rằng:

- “Bạch đức Thế Tôn! Thật đáng thương thay! Có những kẻ mò trăng đáy nước đến nổi chết chìm”. 

Đức Phật ôn tồn đáp: 

- “Đúng thế! Thật đáng thương xót! Nhưng đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.

Có người tìm trăng đáy nước, thấy ánh trăng lung linh ảnh hiện trên mặt nước, nên lao đầu xuống nước mò kiếm, nhọc sức luống công mà còn cái khổ phải bị chết chìm mà không biết rằng rất đơn giản chỉ cần ngước đầu lên thì sẽ thấy được ngay chị Hằng xinh đẹp thật. Rồi lại có người cho rằng trên đời không có trăng dù rằng mặt trăng tròn vằng vặc vẫn đang toả ánh sáng huyền diệu bao trùm vũ trụ không gian đó... Đây là những người thật đáng thương, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṅgama  Sūtra)  gọi là những chúng sanh luân hồi.

Trong chương I, đoạn III, Phần Chỉ hai thứ cỗi gốc mê (avijjā)và ngộ (Nibbāna, Prajñā), Phật bảo Tôn giả A-nan: 

“Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành được đạo vôthượng Bồ đề, đến nỗi lại thành Thanh văn, Duyên giác hoặc thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương, hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ cỗi gốc? 

A-nan, một là cái cỗi gốc sống chết vô thỉ, tức như thầy ngày nay cùng các chúng sanh dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tánh

Hai là cái thể bản lai thanh tịnh Bồ đề Niết bàn (Nirvāṇa, Nibbāna) vô thỉ thì như hiện nay cái tánh bản minh thức tính của thầy, sanh ra các duyên mà bị bỏ rơi. Do các chúng sanh bỏ rơi cái bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng vào trong lục đạo”[1].

Kinh Thủ Lăng Nghiêmlà một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa, có rất nhiều tư tưởng thâm áo ẩn tàng trong kinh. Như một vườn hoa có rất nhiều hoa nở đẹp, tuyệt đẹp nhất là hoa cúc trắng tinh khiết nói về Tạng tánh Như-Lai-Tạng (Tathãgatagarbha-the source of all phenomena) , hoa cúc vàng nói về mặt luân chuyển của thức tinh nguyên minh và nhiều hoa khác nữa. Nội dung cuốn sách nhỏ này chỉ nói về mặt ý nghĩa ‘luân hồi’ mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêmcó đề cập đến, như người làm vườn chỉ xin nhặt hoa cúc vàng để mời người xem; còn hoa trắng chỉ xin giới thiệulướt qua, đợi đủ thắng duyên sẽ tiếp tục ra mắt một tác phẩm khác về ý nghĩa này.

Con thành tâm hướng về Đại Ninh, Việt Nam, xin đê đầu đảnh lễ trên Tôn sư Hải Triều Âm, người đã hết lòng truyền trao cho chúng con nghệ thuật của người làm vườn từ những năm 1983, 1984 và 1985; người đã trao những hạt giống chắc tốt của Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna-sutta)và Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra)  cho chúng con. Hôm nay giống đã ra hoa. Nếu chúng con có được chút công đức phước thiện nào trong cuốn sách nhỏ này, xin kính dâng trên Thầy và pháp giới chúng sanh.

Lòng dạt dào tràn đầy những cống hiến, nhưng sự giác tỉnhnăng lực thì còn yếu kém quá, kính trông mong các thiện tri thức từ bi chỉ dạy cho những lỗi lầm sai sót, để lần tái bản sau sách được hoàn mãn hơn.

Thành kính tri ân.

 

Mùa thu lá đỏ tại WI, ngày 30 tháng 8 năm 2008

                   Thích Nữ Giới Hương


  1  Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, NXB Tổng hợp Tp HCM, 1999, tr. 68.

Xem sách đầy đủ hình ảnh tại đây

1.Cover Rebirth in Suragama - TN Gioi Huong
 Xem thêm bản tiếng Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10500)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6090)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9351)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6408)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5973)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7494)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7310)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5199)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8072)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5922)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9596)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7386)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7408)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6212)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5308)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5854)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5654)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3961)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5697)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4077)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7515)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5713)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21895)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5595)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7048)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5011)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6438)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5806)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5008)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7047)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6040)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5563)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5874)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5999)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6434)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6075)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6465)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6148)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6349)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5596)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6896)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4562)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7775)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6013)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7269)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7695)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5493)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5142)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5649)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5510)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5515)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5016)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4258)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6037)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5631)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6290)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8526)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5233)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5800)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant