Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?

05 Tháng Tám 201820:59(Xem: 7109)
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Hà Yên Sinh
Thích Trung Nghĩa dịch
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
Thời kì Nara có 6 tông phái: Tam luận, Pháp tướng, Hoa Nghiêm, Luật tông, Thành thật, Câu-xá, gọi là “Nam đô lục tông” (南都六宗), Đại tạng kinh chữ Hán cũng truyền nhập thời kì này. Thời kì đầu Heian có 2 tông: Hoa nghiêm, Chân ngôn, gọi là “Heian nhị tông” (平安二宗). 8 tông phái này chủ yếu là tín ngưỡng của thượng tầng quý tộc trong xã hội lúc đó.

Đến thời kì Kamakura thì Thiền tông, Tịnh độ tông, Nhật Liên tông nối tiếp phát triển, Phật giáo bắt đầu lưu hànhnhân gian. Sau khi Phật giáo du nhập, đã kết hợp với văn hóa truyền thống Nhật Bản, rồi hoạch đắc phát triển mới, hình thành một số tông phái dân tộc hóa. Trên lịch sử, Phật giáo phát sinh ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa Nhật Bản, mãi đến ngày nay, Phật giáo trên xã hội Nhật Bản vẫn có sức mạnh khá lớn. Để hiểu rõ Phật giáo Nhật Bản, nay giới thiệu ngắn gọn các tông phái chính Phật giáo Nhật Bản sau đây.

Tông phái thời kì Nara và Heian

Tam luận tông:do Tuệ Quán sáng lập. Tuệ Quánđệ tử của ngài Cát Tạng ở chùa Gia Tường. Sư đến Nhật Bản năm 625 sau Tây lịch, ở chùa Nguyên Hưng thời kì Asuka và giảng truyền Tam luận, bắt đầu kiến lập Tam luận tông, trở thành vị khai tổ đầu tiên về tông phái Phật giáo Nhật Bản. Sư có nhiều đệ tử rất có tiếng như Phước Lượng, Trí Tạng, Đạo Từ, họ từng đến triều nhà Đường để học tập Tam luận, thông thường hợp ba người này lại gọi là ‘Tam truyền’ (三传) của Tam luận tông. Tam luận tông nhấn mạnh nghiên cứu lý luận, xem nhẹ thực tiễn tôn giáo, nên lưu truyềnNhật Bản không lâu sau thì lần lượt bị tàn lụi. 

Pháp tướng tông:Pháp Tướng tôngNhật Bản có Tứ truyền. Thứ nhất là Đạo Thiệu. Sa môn Đạo Thiệu ở chùa Nguyên Hưng thời Nara, năm 653 sư đi theo sứ giả đến triều nhà Đường, làm học trò học tập với ngài Huyền Trang. Sư ở đất Hán 7 năm, sau đó về nước ở chùa Nguyên Hưng, hoằng tuyên rạng rỡ học thuyết Pháp tướng. Truyền thứ hai là Trí Thông, Trí Đạt. Hai người này cùng dong thuyền đi đường biển đến đất Hán vào năm 658, bái kiến ngài Huyền Trang, tôn ngài Khuy Cơ làm để học giáo nghĩa Pháp tướng, học xong về nước, sau truyền sở học.

Truyền thứ ba là các vị: Trí Phụng, Trí Loan, Trí Hùng. Họ phụng chỉ đến triều Đường, học giáo nghĩa Duy thức với ngài Trí Chu, sau về nước hoằng rộng Duy thức. Truyền thứ tư là Huyền Phưởng, sư là đệ tử được Trí Phụng truyền lại, năm 717 sư vâng lệnh dong thuyền đến đất Hán, học tập giáo nghĩa Pháp tướng với ngài Trí Chu, ở đất Hán 18 năm, được hoàng đế Mông Huyền tông sắc ban ca-sa, đến năm 734 thì mang tạng kinh có được về nước, ở chùa Hưng Phước, hoằng rộng sở học. Xưa nay người ta gọi chung hai vị đầu là “Nam tự truyền” (南寺传) hoặc “Nguyên hưng tự truyền” (元兴寺传), gọi chung hai vị sau là “Bắc tự truyền” (北寺传) hoặc “Hưng phước tự truyền” (兴福寺传). 

Hoa Nghiêm tông: do Đạo Duệ thời Đường truyền nhập Nhật Bản. Đạo Duệ là tăng lữ ở chùa Đại Phước Tiên trong thành Lạc Dương. Sư nhận lời yêu cầu của tăng sĩ Vinh Duệ và Phổ Chiếu mà đến Nhật Bản. Năm 736, sư đem chương sớ Hoa Nghiêm qua Nhật Bản, hoằng dương Hoa Nghiêm.

Lúc đó cao tăng Triều TiênThẩm Tường cũng đến Nhật Bản, ở chùa Đại An, tinh thông giáo nghĩa Hoa Nghiêm tông, năm 740 lần đầu tiên Thẩm Tường giảng Hoa Nghiêm kinh trong đạo tràng chùa Kim Chung, là sơ tổ Hoa Nghiêm tông Nhật Bản, Hoa Nghiêm tông từ đó bắt đầu phát triển. Đến thời kì Kamakura, tuy nhiên có trở ngại, việc hoằng truyền của cao tăng gặp khó khăn, nên họ chỉ dừng lại ở trên nghiên cứu giáo nghĩa, mà chưa phổ cập dân gian, nên giáo nghĩa dần mờ nhạt. Chùa Tōdai-ji ở Nara là biểu trưng cho tông này.      

Luật tông:do Giám Chân thời Đường sáng lập. Sa-môn Nhật Bản là Vinh Duệ và Phổ Chiếu đến Đất hán vào năm 733 để cầu học giới luật, lúc đó nghe Giám Chân ở chùa Đại Minh trong Dương châu là bậc danh đức luật học đương thời, rồi dần dà lòng thành mời sư đến Nhật Bản hoằng hóa. Ban đầu sư đến Nhật Bản, tức là vào năm 743, sư cùng với đệ tử đem phẩm vật kinh sách lên thuyền đi về phía Đông, sáu lần vượt biển, gặp gian khổ chín chết một sống vẫn không rút lui, chịu mọi gian nan, cuối cùng đến Nhật Bản vào năm 753, được tăng tục triều đình Nhật Bản hân hoan đón rước.

Năm sau sư đến kinh sư. Thiên hoàng hạ chiếu an trí ở chùa Tōdai-ji, hưng kiến giới đàn. Thiên hoàng, hoàng hậu và hoàng thái tử cùng hơn 400 người đăng đàn thọ giới bồ-tát, những tăng sĩ Nhật Bản như Linh Dụ, Hiền Giới, Chí Trung đều bỏ giới củ mà thọ giới mới, đó là giới đàn truyền giới đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 757, để có phương tiện luật học, sư xây chùa Chiêu Đề ở Nara, rồi kiến lập giới đàn. Sư là vị sơ tổ sáng lập Luật tông Nhật Bản. Sau đó, theo biến thiên năm tháng mà tông phong chìm lắng, thời gian lâu vẫn không mở giới đàn.    

Thực ra, ngoài Tứ tông ra, còn có Thành thật tôngCâu-xá tông. Thành thật tông do tăng sĩ người Triều TiênTuệ Quán thời Tùy sau khi đem Thành thật luận truyền nhập Nhật Bản, giảng tập ở Nhật Bảnlần lượt hình thành tông phái. Câu-xá tông do tăng Nhật BảnĐạo Chiêu, Trí Thông, Trí Đạt đến triều Đường rồi đem Câu-xá luận truyền vào Nhật Bản, sau đó giảng thuật rạng rỡ mà hình thành tông phái. Nhưng mà, nguồn gốc hai tông này chỉ là dựa trên Tam luận tôngPháp tướng tông mà thôi, chưa có hoằng truyền độc lập, cũng chưa được đặc biệt xem trọng.     

Thiên Thai tông: Tối Trừng (còn gọi là đại sư truyền giáo, 767~822) là vị sáng lập Thiên Thai tôngNhật Bản. Năm 840, sư dong thuyền đến đất Hán, rồi học tập giáo nghĩa Thiên Thai với Đạo Thúy và Hạnh Mãn, được Đạo Thúy truyền bồ-tát giới, rồi đến học thiền pháp với Pháp Dung trên núi Ngưu Đầu. Năm sau lại đến học tập Mật giáo với a-xà-lê Thuận Hiểu ở chùa Linh Nham, rồi thọ quán đỉnh Mật giáo. Đầu năm Thiên Hựu thời Đường, pháp môn mà sư đã học, nghiêng về bốn tông: Thiên thai tông, Chân ngôn tông, Thiền tông, Giới luật tông, nên gọi là “Tứ tông tương thừa”.

Sư về nước năm 805, ở núi Hiei, khai sáng Thiên Thai tông Nhật Bản, viết cuốn Đường quyết tập (唐诀集), Thủ hộ quốc giới chương (守护国界章), cuộc đời viết hơn 280 bản văn, sau khi viên tịch được vua phong thụy là “Truyền Giáo đại sư”. Trong số đệ tử của sư, có Viên NhânViên Trân cũng nối tiếp đến triều Đường cầu pháp, sau khi về nước, đã hoằng truyền rạng rỡ giáo nghĩa Thiên ThaiChân Ngôn tông, thúc đẩy Thiên Thai tông phát triển mau chóng ở Nhật Bản, đến nay vẫn thịnh không suy.     

Chân Ngôn tông: do không Hải sáng lập. Năm 804, Không Hải (774~835) đi cùng Tối Trừng theo sứ thần đến triều Đường, đến ở chùa Thanh Long trong thành Trường An, lạy a-xà-lê Huệ Quả làm thầy, được nhận hai bộ “Đại mạn-đà-la bí Mật pháp”, và được vị a-xà-lê truyền quán đỉnh, đồng thời còn ưa học ‘Tất đàm’ với tam tạng Bát-nhã. Năm Chí Đức thời Đường, sư mang về nước hơn 100 điển tịch nội điểnngoại điển, hoằng truyền rạng rỡ Mật giáo, được triều đình tôn sùng.

Sư khai sáng Chân Ngôn tông, mở mang đạo tràng căn bản trên núi Koya, viên tịch năm 835, vua sắc thụy hiệu “Hoằng Pháp đại sư”. Sư viết Bí mật mạn-đà-la giáo phú pháp truyện (秘密曼茶罗教付法传), Biện hiển mật nhị giáo luận (辨显密二教论), cuộc đời sư viết hơn 150 bản. Sư có các đệ tử như Thưởng Hiểu, Viên Hạnh cũng nối gót đến đất Hán cầu pháp, sau khi về nước, hoằng truyền sở học, nên mang tác dụng rộng lớn trong việc phát triển Chân ngôn tông Nhật Bản

Như trên đã trình bày, thời kì Nara và Heian là sơ truyền và giai đoạn hấp thu của Phật giáo Nhật Bản, trước sau thành lập các tông phái lớn đều trực tiếp hoặc gián tiếp do từ Trung Quốc truyền nhập, còn về giáo nghĩa thì kế thừa từ Phật giáo Trung Quốc mà không có đột phá mới. Tồn tạilưu truyền của các tông phái này, một mạch được xem là tư tưởng văn hóa mang tính chỉ đạo một dạng chính trị, tiếp nhận từ việc bảo vệ đất nước và quý tộc, rõ ràng có đủ tính quý tộc, nhưng không có nền tảng dân chúng. 

Tông phái mới được hưng khởi thời kì Kamakura: Thời kìKamakura, Phật giáo bắt đầu kết hợp với tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, rồi gặt hái được phát triển mới, tiếp tục hưng khởi Tịnh độ tông, Chân tông, Nhật Liên tôngThiền tông mang đầy đủ đặc thù dân tộc Nhật Bảntiếp tục hưng khởi. Những tông phái này, đều hướng đến việc truyền giáo cho dân chúng làm trọng điểm, trên giáo nghĩa thì xây dựng một hệ thống lý luận ách yếu gọn rõ để dân chúng dễ tiếp thu, chú trọng tư tưởng tín ngưỡng, từ đó phát triển nhanh chóng, nên gọi là “Kamakura tân Phật giáo” (鎌仓新佛教) hoặc “Nhật Bản Phật giáo (日本佛教).

Tịnh Độ tông: Pháp Nhiên (pháp danh Nguyên Không) là người sáng lập Tịnh Độ tông Nhật Bản. Pháp Nhiên (1133~1212), năm 13 tuổi lên núi Hiei xuất gia, theo a-xà-lê Hoàng Viên để học tập, nghiên cứu về huyền chỉ nhị môn: giáo, quán. Sau đó đến học hỏi các danh tăng, nghiêng về nghiên cứu Phật giáo, người thời đó gọi Pháp Nhiên là: “Tọa chủ Pháp Nhiên trí tuệ đệ nhất” (智慧第一法然座主). Từ lúc sư đọc đến đoạn “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà” trong cuốn Quán kinh tán thiện nghĩa (观经散善义) của ngài Thiện ĐạoTrung Quốc, mà có nhiều sở ngộ.

Năm 1175, sư khai sáng Tịnh Độ tông Nhật Bản “Nhất hướng chuyên tu tông”. Sư chưa từng đến Trung Quốc, nhưng lập tông khai giáo của sư được kế thừa tư tưởng Tịnh độ của ngài Thiện Đạo thời Đường Trung Quốc. Thông qua phán giáo của hệ thống, có thể thấy được ngoài các tông phái ra, còn sáng lập các hệ phái độc lập. Sau đại sư Không Hải sáng lập Chân Ngôn tông, có thể nói sư là người số một.

Sư viết cuốn Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập (选择本愿念佛集), luận thuật tôn chỉ của việc sáng lập Tịnh Độ tông, và công khai tuyên ngôn “Ta dựa vào bậc thầy Thiện Đạo, mà khai sáng Tịnh độ tông”. Sư chỉ định Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, A-di-đà kinhVãng sanh tịnh độ luận của ngài Thiên Thân là “Tịnh độ tam kinh nhất luận” để thành lập giáo nghĩa tịnh độ, chủ trương “xưng danh niệm Phật” liền  có thể vãng sanh Tây phương. Tịnh Độ tông sau đó phân ra hai phái lớn là: Trấn Tây phái, Tây Sơn phái. Sư có rất nhiều đệ tử, trong đó Thân Loanđệ tử rất nổi tiếng.     

Tịnh độ Chân tông:gọi tắt là Chân tông, do đệ tử của Pháp NhiênThân Loan sáng lập. Thân Loan (1173~1262) người Kyōto, xuất thân quý tộc, mẹ mất sớm từ nhỏ, sau  đến xuất gia với tăng chánh Viên Từ ở Thanh Liên viện, rồi có là pháp danh Phạm Yến, ở núi Hiei 10 năm, còn đến Nara để nghiên cứu tham học với luận sư các tông như Tam luận, Pháp tướng. Sau đó nghe Pháp Nhiên tuyên dương pháp môn dễ thực hành niệm Phật, sư lập tức đến thảo am Cát Thủy lạy xin Pháp Nhiên truyền dạy, và đổi tên là Xước Không. Lúc 31 tuổi, sư kết hôn với con gái quý của Kujō Kanezane, trở thành tăng sĩ có vợ đầu tiên ở Nhật Bản, cũng là bắt đầu cho quan hệ phát sinh giữa Chân tôngquý tộc.

Sau đó do từ việc phát sinh hai tăng sĩ: Trụ Liên, An Lạc phạm giới xuất giadâm dục với cung nữ, dẫn đến sư và họ bị đuổi khỏi, bị lưu đày đến Echigo (nay là Niigata), rồi sư tự xưng là “Ngu Thốc Thân Loan” (愚秃亲鸾). 5 năm sau thì gặp lúc Pháp Nhiên viên tịch, sư chuyển tới Tōhoku Nhật Bản để truyền giáo, rồi lấy họ là Ngu Thốc, chính thức đổi tên là Thân Loan. Sư viết bộ Giáo hạnh tín chứng văn loại (教行信证文类) gồm 6 quyển, là giáo điển căn bản để lập giáo khai tông. Sư nhấn mạnh ‘người ác’ cũng có thể vãng sanh Tây phương, dẫn đến dân chúng ưa chuộng. Chân tông về sau phát sinh rất nhiều hệ phái, chùa Hongan-ji và Otani phái rất có ảnh hưởng.  

Nhật Liên tông:còn gọi là Pháp Hoa tông, do Nhật Liên sáng lập. Nhật Liên xuất gia năm 16 tuổi, đạo hiệu là Thánh Phòng Liên Trưởng. Nhật Liên trước sau tới học tập ở các nơi như Kamakura, Kyōto, Nara, Cao Dã. Năm 1253, sư ở chùa Thanh Trừng sáng lập Nhật Liên tông. Chủ trương lấy Pháp Hoa kinh làm kinh điển dựa vào chính yếu, tuyên dương công đức theo Pháp Hoa kinh, chỉ có tuyên thuyết đề mục Pháp Hoa kinh và xướng niệm “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa kinh”, mới có thể cứu vớt chúng sanh, nên lần lượt ảnh hưởng nhiều trong xã hội dân chúng.

Sư viết cuốn Lập chánh an quốc luận (立正安国论), ra sức bài bác công kích các tông phái như: Tịnh độ, Thiền, Chân Ngôn. Sư nhiều lần dâng sớ lên triều đình Mạc phủ Tokugawa, thỉnh cầu ngăn cấm, sau đó bị phải Mạc phủ Tokugawa phán xét sư mang “Tội cuồng ngôn mê hoặc người”, nên sư nhiều lần bị lưu đày. Từ thế kỷ XIX về sau, trong Nhật Liên tông phát sinh ra nhiều tông phái mới hưng thịnh, như sáng lập Hội Soka Gakka, hội Risshō Kōsei Kai, hội Linh Hữu, đều thuộc ba chi phái hệ Nhật Liên tông. Những hệ phái thịnh hành mới này, đến nay chiếm hữu thế lực khá mạnh trong xã hội Nhật Bản.    

Thiền tông:Thiền tông Nhật Bản chia ra: Lâm Tế tôngTào Động tông, hai chi phái lớn đại khái như hệ thống Thiền tông Trung Hoa. Lâm Tế tông do tăng sĩ Nhật Bản Vinh Tây truyền nhập, Tào Động tông do tăng sĩ Nhật Bản Đạo Nguyên truyền nhập. Vinh Tây (1141~1215) từ năm 1168 và năm 1186 đã hai lần đến triều Tống, rồi tham học với các Thiền sư ở trên các ngọn núi Thiên Thai, Lư Sơn, Dục Vương, Thiên Đồng, sau đó đến ở chùa Vạn Niên trên núi Thiên Thai, yết kiến Thiền sư Hư Am, được truyền tâm ấn Lâm Tế, còn trao giấy chứng nhận và y cụ làm ấn tín.

Sau sư về nước thì lập hai chùa, phát triển sáng soi thiền học, đồ chúng tập trung, chủ trương ‘khán thoại thiền’, viết cuốn Hưng Thiền hộ quốc luận (兴禅护国论), cuộc đời sư viết 9 quyển, 7 bộ, trở thành tông phái mới Lâm Tế tông Nhật Bản. Lâm Tế tông hiện nay còn chia ra 15 hệ phái, Diệu Tâm tự pháiKiến Trường tự phái là có ảnh hưởng rất lớn.

Đạo Nguyênđệ tử do Vinh Tây truyền lại, cũng đến triều Tống vào năm 1233, trải qua tham học các Thiền sư ở trên các núi Thiên Đồng, Thiên Thai, Kinh sơn, sau đó được Thiền sư Như Tịnh ở chùa Cảnh Đức trên núi Thiên Đồng chỉ điểm bèn hoát nhiên khai ngộ, được ấn chứng, thọ truyền bí ẩn và tấm ảnh y cụ, về nước năm 1227, lập chùa Vĩnh Bình trên núi Tản Tùng, hoằng rạng rỡ thiền học, nhấn mạnh tu ‘mặc chiếu thiền’, đề xướng không “Cứ việc ngồi thiền, tức tâm là Phật”, viết cuốn Chánh pháp nhãn tạng (正法眼藏), cuộc đời sư viết 118 quyển, 9 bộ sách, xiển dương tôn chỉ Tào Động, sáng lập Tào Động tông Nhật Bản.    

Thiền sư Ẩn Nguyên thời Minh qua Nhật Bản khai sáng Hoàng Bá tông, và cùng với Lâm Tế, Tào Động mà lập thế chân vạc thành ba, tông phong đại khái tương đồng với Lâm Tế, cũng có xướng tụng, pháp thức âm thanh lời kinh, cũng có thay đổi quy cách phong thái, lúc đó trong chùa khích lệ sôi nỗi phong trào học vấn, cơ cấu giáo dục học vấn và nghĩa học các tông phái cũng theo thời cuộc mà phát triển. Hoạt động giáo dục rầm rộ, nhân tài xuất hiện rất nhiều trong các tông phái. Phật giáo Nhật Bản lần lượt hình thành: quốc gia hóa, xã hội hóa, gia đình hóa, chia rõ tông pháihiện đại học thuật hóa, dẫn đến đặc chất Phật giáo liên quan mật thiết đến đất nước và dân chúng.   

Bản văn trích lục từ tạp chí “Pháp âm”    

***

Tiến sĩ triết học Hà Yên Sinh (1962~?), Giáo sư tôn giáo học Đại học Women's Kōriyama (Koriyama Women's University) Nhật Bản. Lĩnh vực nghiên cứu của ông là tỉ giảo tôn giáo học, đối thoại tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo, sử tư tưởng Phật giáo, thiền học Đông Á; soạn viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Nhật Bản và tiếng Hán. Giới nghiên cứu Phật giáoTrung QuốcÂu Mỹ đánh giá ông là “Một vị học giả Phật giáo nổi tiếng có đủ tiêu chuẩn quốc tế” (theo Học viện triết học đại học Vũ Hán)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12831)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26682)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13080)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27064)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32909)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31707)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32614)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13047)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12170)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17526)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18772)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12594)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11795)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13148)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12243)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12514)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11659)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12024)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10634)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10943)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28356)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11186)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11394)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13612)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11056)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11452)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10911)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11209)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26400)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12412)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14904)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11074)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20378)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12380)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11509)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10789)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23977)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11875)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12332)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12864)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11073)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38760)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10561)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12228)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25115)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10569)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10785)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12067)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11342)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11622)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14756)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21458)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9925)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11287)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27407)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11194)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11859)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11020)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14339)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant