Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Trong Trung Quán Luận

02 Tháng Mười 201808:47(Xem: 7375)
Tánh Không Trong Trung Quán Luận
Tánh Không Trong Trung Quán Luận

Liên Đan
Tánh Không Trong Trung Quán Luận


Tánh Không
 là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừaChủ đề này được triển khai và quảng bá suốt dòng lịch sử phát triển của Phật giáo, do đó nó đã ngày càng trở nên tinh tế, sâu sắc và dường như lại càngphức tạp hơn. 


Theo dòng lịch sử phát triển của Phật giáo thì khái niệm về tánh Không luôn giữ một vị trí trọng điểm trong giáo lý và đã được nhiều vị đại sư uyên bác triển khai dưới nhiều gốc độ. Đối với Trung quán,tánh Không là một kinh nghiệm cảm nhận về thực thể tối hậu của mọi hiện tượng. Không dựa vào một tư duy mang tính cực đoannào, không căn cứ vào một quan điểm nào, không đứng vào một vị thế nào thì đấy chính là phương cách giúp thấu triệt được tánh Không. Bởi vì tất cả các pháp từ nhân duyên sanhduyên sanh chỉ là huyễn tướng của sự hòa hợp, bởi thế quán sát cái gọi là tự tính chân thật thì thấy chúng chẳng có mảy may một thực thểnào. Không có cái tự tánh thường trụđộc lập tự thành nên gọi là tính Không. Nhưng tính Khôngkhông phải là sự phủ định nhân quả, mà chỉ muốn nói các pháp đều là giả danh

Tuy nhiên, có một số người lại cho rằng tánh Không trong Đại thừa mang ý nghĩa trống rỗng và hư vô, từ đó cho rằng Phật giáo Đại thừa bác bỏ những giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy trước đó. Có thật tánh Không trong Phật giáo Đại thừa mang ý nghĩa tất cả đều không có? Thật ra nói đếntánh Không thì tài liệu đề cập rõ ràng nhất đó là Trung quán luận, và tác phẩm này cũng đã có rất nhiều người bình giảng. 

Tánh Không là gì? 

Các nhà nghiên cứu chia Phật giáo làm ba thời kỳPhật giáo Nguyên thủyPhật giáo Bộ phái, vàPhật giáo Đại thừa. Khởi nguyên của tánh Không được phát xuất từ khái niệm Không trong Phật giáo Nguyên thủy. Trong kinh tạng Nikaya hay A-hàm, khái niệm Không được Đức Phật mô tả làtrạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về đời sống gia đìnhĐức Phật dạy rằng: Thuở xưa và nay ta nhờ an trú không, nên an trú rất nhiều, ví như lâu đài lộc mẫu này không có voi, bò, ngựa, không có vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỳ-kheo. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại ở đây, vị ấy tuệ tri ‘cái kia có, cái này có’. Cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh không tính1. Nội dung đoạn kinh cho thấy rằng, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải an trú vào Không, thực tập buông bỏ những lo âu phiền lụy về vợ con, ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa… Không là đời sống tu tập không vướng bận, xa lìa ngũ dục, xả bỏ tất cả phiền não hướng đến đời sống phạm hạnhgiải thoát


Đến thời kỳ Phật giáo Đại thừatánh Không được xem là không có thực thể cố định chứ không phải là không có sự hiện hữu của một thứ gì đó. Long Thọ đứng trên lập trường Phật giáo Nguyên thủykế thừa và phát triển thành Duyên khởi tánh Không, với mục đích phê bình tư tưởng các bộ phái, mà cụ thể là Hữu bộ với quan điểm:“Tam thế thật hữupháp thể hằng tồn”2, tức là ba đời quá khứhiện tại và vị lai đều thật có và tất cả các pháp về bản chất là thật có. Hữu bộ chủ trương “nhất thiết hữu”, lấy Duyên khởi làm căn cứ, như giảng sáu nhân bốn duyên, rồi cho rằng những pháp nào do nhân duyên sinh đều là có thật. Long Thọ chỉ ra rằng các pháp là vô tự tánh, là giả danh. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hình thành tư tưởng duyên khởi tánh Không của Long Thọ mà qua đó Trung quán luận được hình thành. 

Như vậy, Long Thọ phê phán những học thuyết sai lầm của các bộ phái để xây dựng lại một nhận thức chân xác về thực tạiHòa thượng Tuệ Sĩ nhận xét vai trò của Long Thọ như sau: “Vai trò củaLong Thọ là phê phán các học thuyết đã có mà tất cả đang lặn hụp trong ngôn từ và khái niệm, kể cả Phật học và cả Bà-la-môn”3. Sự phê phán của Long Thọ dựa trên lý Duyên khởi đưa ta đến một sự nhận thức mới, vượt ra ngoài những tương đãi cục bộ của khái niệm, và liễu tri thực tại tuyệt đốibằng trí tuệ Bát-nhã. Đồng thời Trung quán luận đứng trên lập trường Đệ nhất nghĩa đế để đả phá sự quan sát sai lầm của Đệ nhị nghĩa đế, đặc biệt là căn cứ theo phương pháp biện chứng luận chỉ trích các học phái Tiểu thừa đã lập ra nhiều thuyết mâu thuẫn4

Tánh Không trong Trung quán luận 

Không (sunyata), ở đây không phải là hư không hay không có gì, mà “không” là một sự mô tả bản chất chân thực của sự vật. Bản chất của chúng hoàn toàn do duyên khởi mà có. Chúng như một dòng thác chảy, nhờ sự kết cấu các hạt nước lại tạo nên. Chính vì các bộ phái Phật giáo đã hiểu sai vấn đề khi dựa trên hiện tượng luận để nhận diện sự vật cho rằng Không là không vô sở hữuhay vô thể, nên ngoại đạo lầm tưởng Long Thọ sử dụng pháp biện chứng tánh Không để phủ nhậnthế giới hiện tượngbác bỏ sự hiện có của các đối tượng tri thứcVì vậy đối phương đã đưa ra những lập luận sai lạc: nếu cho tất cả là Không thời suy luận giáo pháp tu tập và đạo quả trở nênvô nghĩa. Ta có thể thấy những sai lầm ấy nơi phẩm 24: Nếu cho rằng tất cả là không, không có tính ở hữu, tức là không sinh không diệt, nên không có Tứ Thánh đế cũng không có bốn quả Sa-môn, không có bốn hướng bốn đắc quả. Tám bậc hiền thánh này không có tức không có Tăng bảo. Vì không có Bốn Thánh đế nên không có Pháp bảo, đã không có Pháp bảo và Tăng bảo thì Phật bảo cũng không. Họ cho rằng Long Thọ là kẻ phá hoại Tam bảo5


Hữu bộ cho rằng nếu tất cả các pháp là không thì không có khái niệm sinh diệtVậy thì sẽ có vấn đề phát sinh trong giáo lý Tứ đếGiáo lý này gồm Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Khổ do Tập sinh ra và do Đạo mà có sự diệt. Vậy nội dung Tứ đế là có khái niệm sinh và diệt, trong khi Long Thọ cho rằng tất cả các pháp là không, như vậy thì chẳng khác nào tất cả các pháp đều không có khái niệm sinh diệt, thế thì Tứ Thánh đế cũng không có. Điều đó cũng đồng nghĩa không có luôn bốn quả vị, và do không có bốn quả vị nên cũng không có người hướng đến bốn quả vị này (Tăng bảo). Rõ ràngLong Thọ là người phủ nhận đạo lý sinh diệt, phủ nhận đạo lý Tứ Thánh đế (Pháp bảo) và phủ nhận luôn cả bốn quả vị, thậm chí phủ nhận sự tồn tại của Tăng bảoVậy thì ông phủ nhận luôn cảPhật bảo, vì ông phủ nhận không có trò thì phủ nhận luôn cả người thầy. Như thế rõ ràng chủ trương tất cả pháp đều không của Long Thọ là chủ trương phá hoại Tam bảoVậy thì ông là ngoại đạo

Trên đây là những câu cật vấn của Hữu bộ đối với Đại thừa (đại diện là Long Thọ). Vậy Long Thọđã phản bác như thế nào. Trong Trung quán luậnLong Thọ nói: “Hiện tại quả thật các người không có khả năng tri nhận được tánh Không và nhân duyên của Không tánh kể cả ý nghĩa của Không tánh nên đã tự mình sinh khởi những não hại!”6. Thuyết tánh Không của Trung quán rất tinh tếvì vậy thường dễ bị hiểu lầm là một phủ định luận. Long Thọ chỉ trích ngoại đạo rằng: 

不能正觀空 
Không thể chánh quán không 
鈍根則自害 
Độn căn tất tự hại 
如不善咒術 
Như chẳng biết chú thuật 
不善捉毒蛇
Không thể bắt rắn độc
Ngài còn nói thêm rằng: 
世尊知是法 
Thế Tôn biết pháp ấy 
甚深微妙相 
Tướng thậm thâm vi diệu 
非鈍根所及 
Độn căn không thể hiểu 
是故不欲說. 
Thế nên chẳng muốn nói7

Đối với những người căn tánh ám độn khi nghe giảng về tánh Không thì sanh tâm điên đảo chấp trước, không hiểu nghĩa không một cách rốt ráo, không có khả năng hiểu được ý nghĩa đệ nhất nghĩa không một cách chân chánh, gây ra hậu quả là tự mình hại mình. Cũng giống như người bắt rắn mà không biết cách thì bị rắn trở ngược lại cắn lấy mình vậy. Ta có thể bắt gặp hình ảnh này qua kinh Ví dụ con rắn: Nếu một người bắt rắn không biết cách, nắm lấy lưng hay đuôi thì sẽ bị nó quay đầu lại cắn7. Điều này chỉ cho ngoại đạo chưa đủ trí tuệ để hiểu giáo lý thâm sâu này. Chínhvì vậy khi chúng ta muốn hiểu được ý nghĩa nào đó một cách chân chánh thì phải nắm ngay ý chính của nó, đừng bao giờ lấy một ý nghĩa khác để hiểu qua một ý nghĩa khác. Tức là chúng taphải nhìn nhận tánh Không một cách chân xác, xác thực nhất. 
Vì vậy mở đầu Thập nhị môn luận Long Thọ chỉ rõ rằng: “Chúng duyên sở sinh pháp, thị tức vô tự tánh”. Tức là các pháp vô tự tánh vì nó được hình thành từ nhiều nhân và duyên. Vì thế tự tánhcủa các pháp là không. “Có” không phải tự nó, mà do tương đãi với những cái không phải nó, vì thế mà các pháp chỉ là giả có. Với nguyên lý nhân duyên, ta biết rằng Có và Không đều là những tương quan đối nghịch: cái này có vì cái kia có. Do đó cần phải vượt ra ngoài cả hai đối nghịch để đi đến một tổng thể trung đạo. Đó chính là: 

眾因緣生法 
Pháp do các duyên sanh 
我說即是無 
Ta nói đó là không 
亦為是假名 
Cũng chính là giả danh 
亦是中道義. 
Cũng là nghĩa trung đạo. 
未曾有一法 
Chưa từng có pháp nào 
不從因緣生 
Chẳng từ nhân duyên sanh 
是故一切法 
Thế nên tất cả pháp 
無不是空者 
Không pháp nào không phải không8

Bài kệ đã trình bày rõ lập trường của Long Thọ. Các pháp được sinh do nhiều nhân duyên tập hợp, nên gọi chúng là Không, là giả danh, mà cũng là Trung đạo. Hẳn nhiên một pháp mà ta quan niệmđược thì nó vừa là nó mà cũng hàm chứa luôn tính chất phi nó. Bởi nếu không hàm chứa tính chấtphi nó thì pháp ấy không bao giờ bị hoại diệt, như vậy thì mắc vào lỗi thường kiến. Nếu nó không phải là nó thì pháp ấy không có một sự kế tục vô gián, thế thì mắc vào lỗi đoạn kiến. Bất thườngbất đoạn ấy là Trung đạo. Chính nguyên lý nhân duyên đã phá vỡ tính chất tương đối và hạn cuộc của ngôn từ và khái niệm. Như vậy, quan niệm nhân quả đồng nhất như Samkhya là phi lý màquan niệm nhân quả dị biệt như Vaisesika cũng phi lý. Nếu nhân quả đồng nhất thì không có sinh ra quả, nhân quả dị biệt thì cũng không thể sinh ra quả. Vậy thì một pháp luôn được nhận thứcbằng ý niệm về một pháp khác với chính nó và đối nghịch với nó. Khái niệm có có mặt là vì có khái niệm về không. Sự mâu thuẫn Có và Không đi đến một tổng đề: phi có phi không, tức bất nhị. Nhưng bất nhị lại đối nghịch với nhị. Cứ thế một pháp luôn luôn ngầm chứa một pháp đối nghịch với nó. Nguyên lý nhân duyên cho ta biết rằng cái này có vì cái kia có. Long Thọ xác quyết mối quan hệ đồng nhất giữa ba phương pháp mô tả duyên khởi: Không, Giả danh, và Trung đạoGiả danh là vấn đề của nhận thức luận liên quan ngôn ngữ và tư duy. Ngài khẳng định: 

是故經中說 
Thế nên trong kinh nói 
若見因緣法 
Nếu thấy pháp nhân duyên
則為能見佛 
Tức được thấy Phật 
見苦集滅道 
Thấy khổ tập diệt đạo9

Lúc này Long Thọ trích dẫn kinh để thuyết minh. Trong kinh Trung bộ Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được ta”10. Như vậyĐức Phật khẳng định rằng duyên khởi là chân lý, là pháp thường trụ của thế gian, nó liên hệ đếnđời sống thường nhật của con người. Nếu ai thông hiểu được pháp nhân duyên này, cũng đồng nghĩa với việc thông đạt được Khổ-Tập-Diệt-Đạo, thì người ấy sẽ được giác ngộ giải thoát, tức là thấy được Phật. Nếu Tiểu thừa chấp nhận giác ngộ giáo lý Tứ đế là thấy Phật, thì Đại thừa chấp nhận quan điểm phải ngộ tánh Không các pháp, vì khi thông hiểu tánh Không các pháp sẽ rõ đượcTứ đế. Vậy không có lý do gì chấp nhận giáo lý Tứ đế mà không chấp nhận tánh Không. Như thế,tánh Không của Trung quán luận đồng nghĩa với Pháp tánhPhật tánhChân như tánh, Duyên khởi tánh. Như hai bài kệ đầu của Trung quán luận đã nói: 

不生亦不滅 
Không sanh cũng không diệt 
不常亦不斷 
Không thường cũng không đoạn 
一亦不異 
Không một cũng không khác 
不 來亦不出 
Không đến cũng không đi11
能說是因緣 
Bậc năng thuyết nhân duyên 
善諸戲論 
Thiện diệt các hý luận 
我首禮佛 
Con cúi đầu lễ Phật 
諸 說中第一 
Bậc nhất trong các thuyết12

Nội dung bài kệ cho ta thấy rằng sự quán chiếu về các pháp trên nhiều phương diện khác nhau. Cặp phạm trù sinh-diệt là sự quán chiếu hiện hữu, thường-đoạn là quán chiếu về mặt thời gian, nhất-dị là quán chiếu về không gian, và lai-xuất là sự quán chiếu quy tắc vận hành. Trong một sát-na là có cả sanh lẫn diệt, chúng đều do nhân duyên hòa hợp mà có. Ngay bài kệ mở đầu đã lột tả được hết tinh túy của bộ luận. Bát bất này còn gọi là Bát bất duyên khởi. Từ duyên khởi mà pháthiện ra chân lý Bát bất, từ Bát bất quán sát thì hiểu được duyên khởi tánh Không, tức là thấy đượcTrung đạoTóm lại, các pháp chỉ là do duyên khởi mà tạo nên, vì duyên khởi nên nó không chân thật, nó chỉ là như huyễnkhông thật có. Như kinh Kim cang nói: 

一切有爲法 
Tất cả pháp hữu vi
如夢幻泡影 
Như mộng, huyễn, bọt, bóng, 
如露亦如電 
Như sương, như chớp lóe, 
應作如是觀 
Hãy quán chiếu như thế. 

Tóm lại, không chính là một thực tại bất khả đắcThực tại đó không nằm trong giới hạn của tri thứccục bộ mà chỉ trực giác bằng trí Bát-nhã, trí tuệ siêu việt mọi ý niệm tương đãi, mọi danh từ ngôn thuyếtTự tánh của các pháp là không. Do tính chất không mà các pháp có thể sinh hóa, hình thành chuyển biến: Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành. Bản tính các pháp làchuyển biến, mà bản thể chính là hiện tượng và cái bất biến chính là cái chuyển biến. Trên phương diện luận lý, không của Long Thọ là một biện chứng phủ định khai thông con đường đi vào thực tại. Chỉ có không, với biện chứng phủ định mới có thể kéo nhận thức ra khỏi vũng lầy của khái niệm vàngôn từVì vậy, khi nói về tánh Không, không có nghĩa là phủ định hết thảy pháp mà hàm ý làthành lập hết thảy pháp. Vì ngoại đạo không khéo hiểu được nghĩa không nên mới vội cho rằng không tức là hư vô, là không có gì như lông rùa sừng thỏ

Kết luận 

Con người đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm cách để hiểu chân diện mục của thế giớiTrải qua mấy ngàn năm lịch sử, các tôn giáohọc thuyết lần lượt ra đời để giải quyết vấn đề trên; và các triết gialuôn khẳng định học thuyết mà mình đưa ra là chính xác. Nhưng có bao nhiêu học thuyết đưa ra thì có bấy nhiêu sự xung đột và mâu thuẫn xảy ra. Đến khi Trung Quán tông xuất hiện, nó đi thẳngvào vấn đề, phá bỏ mọi mô thức khái niệm, xem tất cả là rỗng không, quét sạch những kiến giải hư ngụy bằng học thuyết tánh Không. Triết lý Trung quán của Long Thọ không những chỉ xác định rằng các pháp là không trên khía cạnh hiện tượng mà còn cho rằng bản thể cũng không. Bản thểkhông, hiện tượng không, hữu vi khôngvô vi không, năng tướng không, sở tướng không, tất cả các pháp đều không, là vô tự tính


Tánh Không với hàm ý rằng vạn vật đều không thật có, không có thực thể, không có tự tánh riêng, tất cả các pháp dù là vật chất hay tinh thần chỉ là nhân duyên giả hợpTánh Không không phải làquán chiếu sự vật phi thực một cách tùy tiện, mà đó là sự phô bày bản chất nội tại của chúng. Điều này giải phóng con người ra khỏi mạng lưới rối rắm của những tà kiến và nhận thức sai lầmLý thuyết đầu tiên để chúng ta hiểu được tánh Không chính là duyên khởi, và sự nổi bật của thuyếttánh Không chính là Trung đạoTóm lại, với quan điểm của Trung luận, không thấy nhân duyên thì không thấy được chân lý, không đi đến Niết-bàn, nghĩa là không hoàn thành được lý tưởng Bồ-tát. 
Liên Đan
_________________

(1) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 2, kinh Tiểu không, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr. 433-434. 
(2) Thích Hạnh Bình, “Triết học Có và Không của Phật giáo Ấn Độ”, Nxb.Phương Đông, 2008, tr.113. 
(3) HT.Tuệ Sĩ, Long Thọ và Biện chứng pháp. 
(4) Kimura Taiken, HT.Thích Quảng Độ dịch, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Nxb.Tôn Giáo, 2012. 
(5) HT.Thiện Siêu, Trung luận, Nxb. TP.HCM, 2001, tr.268-269. (6) Sđd, tr.270. 
(7) HT. Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.9-10. 
(8) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, kinh Ví dụ con rắn, tr.177. 
(9) HT.Ấn Thuận, Lược Giảng Luận Trung Quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.10. 
(10) Sđd, tr.12. 
(11) HT.Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, Đại kinh ví dụ dấu chân voi, VNCPHVN ấn hành, tr.422. 
(12) HT.Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình-Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.5. 
(13) Sđd, tr.5.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26650)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13060)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27028)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32870)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31664)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32586)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13026)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12150)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17503)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18736)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12578)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11783)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13134)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12214)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12498)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11641)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10608)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10932)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28336)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11176)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11041)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11436)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10902)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11189)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26354)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14888)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11064)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20336)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12362)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10769)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23917)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11855)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12836)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11050)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38738)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10540)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12202)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17715)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25055)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10558)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10768)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12056)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11316)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14745)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21443)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9904)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11266)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27376)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11185)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11845)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11012)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14314)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11480)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant