Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niềm Tin Đại Thừa

23 Tháng Ba 201918:25(Xem: 6080)
Niềm Tin Đại Thừa

NIỀM TIN ĐẠI THỪA

Tâm Thái

Niềm Tin Đại Thừa


Nhiều  Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả. Dù có lòng tin mà tin không đúng ý nghĩa thì chỉ tổn công. Kinh điển Đại thừa thì rất nhiều và rất thâm sâu nhưng đều là phương tiệnđức Phật tùy căn cơ giảng dậy nên nếu không biết rõ cốt yếu của Kinh thì sẽ hoang mang. Vì vậy tổ Mã Minh lập Luận Đại thừa Khởi Tín để chúng ta hiểu Đại thừa một cách rõ ràng, đứng đắn không còn nhầm lẫn.

 

- Lịch sử  Luận Đại thừa Khởi Tín

Nguyên tác của  Luận Đại thừa Khởi Tín được viết bằng tiếng Phạn, sau đó được dịch ra chữ Hán. Tác giả  luận này được ghi là của tổ Mã Minh nhưng nhiều học giả không chắc chắn lắm nên chỉ ghi là “cho rằng” của tổ Mã Minh. Hiện nay không tìm thấy được bản gốc bằng chữ Phạn mà chỉ có bản bằng chữ Hán. Cũng có ý kiến cho rằng bản chữ Phạn hiện có là do có người dịch từ chữ Hán ra chữ Phạn chứ không phải bản chữ Phạn gốc. Bản chữ Hán do ngài Paramārtha (Ba la mật đà) (499–569) dịch vào khoảng năm 550 dương lịch. Bản này có tên chữ Phạn là Mahāyāna- śraddhotpāda- śāstra, chữ Hán là Dasheng qixinlun (The Awakening of Faith).

 Dù có sự bàn cãi về tính cách xác thực nào đi nữa, nhưng  nội dung của  luận này được công nhận là rất quan trọng trong Phật giáo Đại thừa và đã có khoảng hơn 170 bản sớ giải tại các nước.  Luận có nhiều ảnh hưởng đến các tông phái như Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Duy thức tông, Tịnh Độ tông ... Tại Việt Nam luận này được dịch/ giảng do các quý hòa thượng Thích Thiện Hoa, Thich Thanh Từ, Thich Tâm Châu.

 Luận này không quá dài, chỉ được ghi trong 9 trang của Đại tạng kinh, nhưng vì cách viết rất cô đọng nên đã có nhiều sớ giải để tìm hiểu kỹ càng.

Có hai bản dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán của  luận này do  Paramārtha (Ba la mật đà, Chân Đế) và śikshānanda (Thật xoa nan đà, Hoặc Hỉ) dịch. Bản dịch của Chân Đế được dùng nhiều nhất.

 

Tổ Mã Minh                                                                    

Tổ Mã Minh (Aśvaghosha) đã tạo ra  luận này.

Tổ Mã Minh (sa. aśvaghosha, zh. 馬鳴, sinh tại Ấn Độ khoảng năm 80 CN – mất khoảng năm 150 CN) hay A-na Bồ-đề (zh. 阿那菩提, sa. Ānabodhi) là nhà thơ, nhà văn và luận sư nổi tiếng, người Ấn Độ, sống giữa thế kỷ 1 và 2, được xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Ông là tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Cũng có chỗ gọi là Bồ Tát Mã Minh.

Tổ có để lại 10 tác phẩm, trong đó có 3 bộ luận:

  1. Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra);
  1. Đại tông địa huyền văn bản luận (sa. mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra);
  2. Đại trang nghiêm kinh luận (sa. mahālaṅkāra-sūtra-śāstra);

Trong đó Đại thừa khởi tín Luận (zh. dàchéng qǐ xìn lùn 大乘起信論, sa. mahāyānaśraddhotpādaśāstra, en. The Awakening of Faith in Mahayana) được xem là một trong những bộ luận quan trọng nhất của truyền thống Đại thừa. (nguồn: Wikipedia)

Lluận này được coi như trích từ những nghĩa lý tinh túy của các kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Già, kinh Pháp Hoa, kinh Bát nhã Ba la mật đa …

Tổ còn là một nhạc sĩ tài giỏi. Khi tổ chơi nhạc thì đặc biệt là các con ngựa nghe được đều hý vang, nên chữ Trung hoa “Mã Minh” có nghĩa là “ngựa hý”, người Tây phương dịch là “Horse-neighing’. Tổ còn sáng tác bản nhạc “Lai cha huo la” để khuyến khích người tu theo Phật đạo.

 

Bản dịch và chú giải của Yoshito S. Hakeda.

 

Yoshito S. Hakeda là người Nhật, vốn là tu sĩ theo tông Chân Ngôn (Shingon) tại Nhật, sau đó qua Mỹ theo học đại học Yale và đến năm 1960 được cấp bằng Ph.D về Sanskrit. Ông dậy về Phật học từ các ngôn ngữ Tây Tạng, Sanskrit, Pali, Trung Hoa và Nhật Bản tại Columbia University, New York.

Cuốn sách “The awakening of faith” do ông dịch và chú giải, rất có giá trị cho việc tìm học về  luận của tổ Mã Minh. Trước phần dịch và chú giải, ông viết phần dẫn nhập rất đầy đủ về bộ luận này.

 

a/ Phần dẫn nhập:

Trước khi vào phần dịch luận, Hakeda đã dành nhiều trang để giới thiệu về bộ luận. Ông ghi về lịch sử bộ luận, trong đó có phần ghi cả những ý kiến khác nhau và những diểm nghi ngờ về nguồn gốc của bộ luận. Ông kết luận dù sao việc đó không quan trọng bằng nội dung của  luận đã được nhiều tông phái trong đạo Phật công nhận và dùng làm tài liệu căn bản trong việc tu tập.

Ông tóm tắt đại ý của  luận là chỉ rõ về thể tánh của Tuyệt Đối tức Giác NgộTương Đối tức Bất Giác, cùng mối tương quan giữa hai thực tại đó. Sau đó  luận chỉ rõ phương pháp làm thế nào để chúng sinh có thể tu tập từ Tương đối để đạt tới Tuyệt đối.

Như vậy  luận đã trình bầy phần Lý tức cốt tủy và ý nghĩa của đạo Phật, sau đó lại nói về Sự tức phương tiện tu tập.

 

b/ Phần nội dung:

Ông Hakeda trình bầy một cách rõ ràng hơn về nội dung của  luận mà chưa đi sâu vào chi tiết của bản dịch.

Tổ Mã Minh chia  luận làm 5 phần: 1 Nhân duyên, 2 Lập nghĩa, 3 Giải thich, 4 Tín tâm tu hành, 5 Khuyên tu lợi ích.

Hakeda nói rõ hơn về việc phân chia đó:

Phần 1: Nhân duyên: Phần này trình bầy 8 nhân duyên mà tổ lập ra  luận này.

Phần 2: Lập nghĩa: giảng rất chi tiết về Một Tâm (One Mind)

Phần 3: Giải thích: giảng rõ về hai tướng của Một Tâm

Phần 4: Nói về bốn Lòng Tin.

Phần 5: Khuyến tu, chỉ về phương pháp tu hành.

 

Phần Lập Nghĩa:

“Đã nói phần nhân duyên, Kế nói phần Lập nghĩa,

Đại thừa gồm có hai thứ. Thế nào là hai? Một là pháp (principle), hai là nghĩa (significance). Nói là pháp đó, nghĩa là tâm chúng sinh.Tâm ấy gồm tất cả pháp thế gianxuất thế gian, y nơi tâm này mà hiển bày nghĩa Đại thừa. Vì cớ sao? Vì tâm ấy là tướng Chân như, tức hiển bày thể Đại thừa. Tâm ấy là tướng nhân duyên sanh diệt, hay hiển bày tướng thể, tướng dụng của tự thể Đại thừa.” (Những chữ in nghiêng trong bài này căn cứ theo bản dịch của hòa thượng Thích Thanh Từ)

Nên lưu ý là mọi pháp đều cần được phân biệt ba phần là thể (essence), tướng (attributes) và dụng (influences). Nếu không phân biệt rõ ràng  thì có thể dẫn đến nhiều điều hiểu lầm. (Những danh từ trong bài bằng tiếng Anh là do Hakeda dùng)

Theo Hakeda nên hiểu rõ danh từ Đại thừa không chỉ có nghĩa hẹpĐại thừa so với Tiểu thừa, mà nên hiểu Niềm tin Đại thừaNiềm tin vào Tuyệt đối, tức là tin vào Chân như.

Hakeda cho rằng phần Lập nghĩa là quan trọng nhất và khó nhất trong năm phần của luận. Phần này chỉ rõ điểm chính trong  luận là quan niệm về Một Tâm. Khi hiểu rõ điểm này thì sẽ dễ hiểu toàn luận.

Danh từ Một Tâm chỉ cái Tuyệt đối khi ứng hiện trong chúng sinh thì được gọi là Một Tâm, là Tâm của chúng sinh. Tâm này tự nó gồm hai nghĩa như sau; bản thể và hiện tượng/ tổng thể và biệt thể/ vô tận và hữu tận/ thánh và phàm/ tịnh và nhiễm … Vì vậy Tuyệt đối không rời Tương đối. Chúng sinhbản thểTuyệt đối nhưng hiện hữu trong Tương đối,  nên cần biết rõ thuyết Như Lai Tạng (Tathāgata garbha).

Danh từ Một Tâm là dịch từ tiếng Anh “One Mind”, nhưng những bản tiếng Việt thường dịch là Nhất Tâm, cần được ghi nhớ là Tâm của chúng sinh.

Như vậy có thể nói:

- Thể của Đại thừaChân Như.

- Tướng và Dụng của Đại thừa là Tâm chúng sinh gồm Chân như + hiện tượng, cũng gọi là Một Tâm (Nhất tâm).

 

“Thế nào là Nhất tâm? Nhất được đề cập ở đây tức duy nhất tuyệt đối, Tâm là Bản thể của tất cả các pháp, Tự tính của tất cả hữu tình chúng sinh gọi là Pháp giới tínhvũ trụ vạn hữu hiện tượng giới gọi là Pháp giới, dù gọi là Phá giới tính hay Pháp giới thì đó cũng là Nhất tâm. Đồng nghĩa dị danh với Nhất tâm: Thật thể, Pháp giới tính, Phật tính, Chân như, Viên giác tính, Như lai tàng, Thật tướng, Diệu tâm, Niết bàn, Bản lai diện mục.v.v… (trích Luận Đại thừa khởi tín: Hán dịch: Chân Đế Tam Tạng Pháp Sư, Trí Khải Đại Sư soạn, HT Thích Liêm Chính dịch).”

Thuyết Như Lai Tạng được lập ra để giải thích tại sao chúng sinh tuy ở trong Tương đốivẫn có khả năng biết được về bản thể vô lượng của mình, và vì vậy có khả năng giác ngộ.

Danh từ Như Lai nguyên có nghĩa là một tôn danh của đức Phật Thích Ca, nhưng đến Đại thừa thì có nghĩa rộng hơn. “Tạng” có nghĩa là chứa đựng. Nên Như Lai tạng là chỗ chứa đựng Như Lai, là Tuyệt đối, là Phật tánhchúng sinh nào cũng đều có sẵn, và đều có khả năng giác ngộ, giải thoát, nhưng khi gặp duyên thì ứng hiện ra hiện tượng nên có phần sinh diệt trong đó.

Quan niệm về Như Lai tạng không rõ ràng trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong Phật giáo đại thừa nó cũng không được trình bầy đầy đủ. Sau đó nhờ Hiền Thủ Pháp Tạng  (Fa- tsang) (643-712) mới nêu rõ được tầm quan trọng của thuyết này.

Theo E. H. Johnston , trong cuốn sách viết về Ratnagotra-śāstra (Bảo Tánh luận), cho rằng trong lịch sử về tư tưởng Phật giáo thì  luận Đại thửa khởi tín phải được coi như tột đỉnh trong Đại thừa  về thuyết Như Lai tạng.

Hakeda lưu ý về việc khó khăn trong khi dịch  luận của tổ Mã Minh là nhiều khi tổ dùng những danh từ khó định nghĩa vì có thể thuộc về thần học, nhận thức học, tâm lý học hay ngay cả sinh học. Vì vậy ông khuyên người học nên hiểu theo nghĩa tượng trưng mà không nên theo những định nghĩa thường dùng.

Phần Giải Thích:

Sau phần Lập Nghĩa là phần quan trọng của luận thì đến phần Giải thích có đầy đủ chi tiết.

Giải thích có ba thứ. Thế nào là ba?

 Một là hiển bầy chánh nghĩa

Hai là đối trị tà chấp

Ba là phân biệt phát tâm tiến đến tướng đạo.”

1. Hiển bầy chánh nghĩa:

Chánh nghĩa Đại thừa chỉ rõ thuyết Một Tâm, gồm hai phương diện: tâm Chân Như (thathatā, Suchness) và tâm Sanh diệt (samsara, phenomena). Hai phương diện đó không rời nhau. Mọi cảnh giới, tất cả các pháp đều gồm cả hai tâm đó.

Tâm Chân Như là “Thể”, là  bản thể của tất cả các pháp, tâm đó chẳng sanh chẳng diệt. Tất cả pháp giới đều do Tâm Chân Như mà có.

“Lại nữa, Chân như đó y ngôn thuyết phân biệt có hai thứ nghĩa. Thế nào là hai? Một là Như thật không, do hay cứu cánh hiển thị chân thật, Hai là Như thật bất không, do có tự thể đầy đủ vô lậu tánh công đức”.

“Tất cả các pháp từ xưa đến nay …chỉ là Nhất Tâm nên gọi là Chân Như.” “Bởi vì tất cả pháp đều là chân, cũng không thể lập, bởi vì tất cả pháp đều là như. Phải biết tất cả pháp không thể nói, không thể niệm, nên gọi là Chân như.”

Luận giải thích thế nào là Chân như:

Chân như là Thể của tất cả pháp, tức là tất cả pháp đều do Chân như mà có. Chỗ đó không  thể nói, không thể nghĩ bàn,”lìa ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, cứu cánh bình đẳng, không có biến đổi, không thể phá hoại”. Vì muốn giảng ra thì phải tạm dùng ngôn thuyết phân biệt mà nói thôi.

Chân nhưhai nghĩa: một là Như thật không, hai là Như thật bất không.

- Như thật không:

“Nói rằng không, vì từ xưa đến nay nó không tương ưng với tất cả các pháp nhiễm,nghĩa là lìa tướng của tất cả pháp sai biệt, do không có tâm niệm hư vọng

- Như thật bất không:

“Nói rằng Bất không đó, đã hiển pháp thể nó không, không có vọng, tức Chân tâm thường hằng chẳng biến đổi, pháp tịnh đầy đủ nên gọi là Bất không.”

A Lại Da Thức:

“Tâm Sanh diệty Như Lai Tàng nên có tâm Sanh Diệt. Nghĩa là chẳng sanh, chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp, không phải một, không phải khác gọi là thức A Lại Da”

“Thức này có hai nghĩa, hay nhiếp tất cả pháp và sinh tất cả pháp. Thế nào là hai? Một là nghĩa giác, hai là nghĩa bất giác”

Như vậy A Lại Da thức là nơi giao nhau giữa nghĩa Tuyệt đốiTương đối, tức là bất sinh diệt và sinh diệt hòa hợp.

Nói về thức A Lại Da (ālaya-vijñāna) hai nghĩa: giác (enlightenment) và bất giác (nonenlightenment).

Luận giải thích: Giác là khi nhận thức được “Pháp giới là một tướng, tức là Như Lai bình đẳng Pháp thân (Dharmakaya)”.

Bất giác là “không biết đúng như thật pháp chân như chỉ một”.

Như vậy nên biết Giác, nói đúngBản giác, nó sẵn có trong tất cả chúng sinh. Nhiều danh từ khác nhau thường dùng để chỉ cho bản giác, đó là Pháp thân, Phật tánh, Tự tánh, Chân như, Chân tâm … Đó là phần Bất sinh diệt, là Thể của vạn pháp.

Còn Bất giác là khi không nhận ra được Thể của các pháp chỉ là một. Mọi hiện tượng chỉ là sự hòa hợp của pháp sinh diệt và pháp bất sinh diệt, là Dụng của vạn pháp.

Nếu không có Thể thì không có Dụng cho nên hai nghĩa đó không thể tách rời nhau được. Điều này rất quan trọng trong việc hiểu nghĩa và việc tu hành.

 

Tìm hiểu thêm:

Phần trên là trích dẫn những điểm quan trọng của bộ luận. Để hiểu rõ nên cần tìm hiểu thêm.

Trước hết là tóm tắt những điểm quan trọng đã được nêu ra.

 

** Tin Đại thừa là tin chúng sanh đều có Phật tánh (Chân như, Chân Tâm, pháp thân ..)

Pháp Đại thừa là Tâm chúng sinh, cũng gọi là Nhất tâm.

Tâm chúng sinh gồm có Thể là Chân như, bất sinh bất diệt, còn Dụng là Bất sinh diệt hòa hợp với phần sinh diệt. Do nhân duyên nên Bất sinh bất diệt hòa hợp với Sinh diệt nên có Tâm chúng sinh. Vì vậy khi nói Bất giác tức Giác thì có vẻ khó hiểu, nhưng dùng thí dụ như có nước là “thể” nên mới có dụng là “sóng”, cho nên khi thấy sóng là biết có nước.

Chân như là Thể của các pháp trong vũ trụ, vì có Chân như nên mới có các pháp. Nên gọi đó là chân lý tuyệt đối không thể dùng lời nói,suy lường để chỉ rõ nên được mang nhiều tên như Phật tánh, Chân tâm, Thực tướng, Bản lai diện mục … vì ngôn thuyết chỉ là giả danh,tạm dùng để tùy trường hợp mà đặt tên.

Đặc tính của Chân nhưbất sinh, bất diệt, không biến đổi, không có tướng.

Dụng của Chân như là khi có các duyên thì mới có phần sinh diệt hiển bầy.

** Điểm này đã khiến có nhiểu ý kiến thắc mắc. Câu hỏi là chúng sinh đều có Phật tánh thanh tịnh, không biến đổi vậy tại sao chúng sinh lại có phiền não, vô minh, luân hồi.

Lấy thí dụ khi nước nổi sóng là do có gió.Gió là duyên làm cho nước nổi sóng, không phải tự nhiên mà nổi sóng. Không có nước thì cũng không có sóng. Khi nói về Dụng thì nên biết là có Thể nên mới có Dụng. Mà cũng không thể nói Thể sinh ra Dụng. Vì vậy khi nói Chân như vốn thanh tịnh tại sao nay lại có phiền não, mà lại hiểu là Chân như biến đổi thành phiền não thì không đúng. Chân như không có biến đổi vì vốn bất sinh bất diệt. Có phiền não vì có vọng niệm.

Tóm lại:     nước ---à gió ----> sóng

                 Chân như ---à vọng niệm ---à phiền não.

                 Thể --à tùy duyên --à  Dụng

Một thí dụ là khi thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), lúc mới vào đạo thường thắc mắc theo các kinh điển thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vậy tại sao phải khổ công tu hành để chứng đạt được Phật tánhgiác ngộ.” nên đã quyết định qua Trung Hoa để tìm thầy học đạo. Sau khi đã chứng ngộ thiền sư trở về Nhật và được coi là sơ tổ tông Tào động tại Nhật.

- Kinh Viên giác nói: “Viên giác trong sáng ảnh hiện thân tâm thích ứng từng loại, vậy mà người ngu dốt nói viên giác thật có các hình thái thân tâm. (phẩm Phổ nhãn)”. Như vậy là chỉ rõ trong Viên giác (Phật tánh) không có Tâm chúng sinh nhưng khi tùy duyên thích ứng thì mới có Tâm chúng sinh, còn Phật tánh thì không biến đổi. Đó là khi có gió thì nổi sóng nhưng nước không biến đổi.

Trong kinh Pháp bảo đàn thì Lục tổ Huệ năng nói rõ: Chân như tức là thể của niệm, niệm tức là dụng của Chân như”.

Trí Khải đại sư cũng nói:

Khi nghiên cứu Chân như phải nên nhớ Chân như có 2 nghĩa.

1: Ly ngôn chân nhưChân như thanh tịnh tuyệt đối, là lý tính Nhất pháp giới bất sinh bất diệt, ly ngôn thuyết, ly văn tự, ly tâm duyên, là tự tính bản hữu của tất cả chúng sinh không thể bị Nhiễm pháp vô minh vọng tâm huân tập.

2: Y ngôn chân nhưChân như tùy duyên nhiễm và tịnh huân tập phát sinh nhiễm và tịnh muôn pháp. Kinh Bát Nhã gọi là Chân như Bất biếnChân như tùy duyên.”

Những ý kiến nêu trên chỉ rõ Chân nhưbất sinh diệt, thanh tịnh nhưng tùy duyên nên có nhiễm-tịnh, chứ không phải Chân như sinh ra nhiễm tịnh..

Nếu không nhận rõ như vậy nên thắc mắc là chúng sinh đều có Phật tánh thanh tịnh mà sao chúng sinh lại vô minh, phiền não.

Nay tạm lấy một thí dụ về “điện”:

Trong “điện” không có “nóng”, nhưng khi gắn điện vào máy sưởi thì có “nóng”.

Điện không có “lạnh” nhưng khi gắn vào máy lạnh thì có “lạnh”

Điện không có “hình ảnh” trong đó nhưng khi gắn vào máy TV thì đầy đủ “hình ảnh”

Điện không có “âm thanh” trong đó nhưng khi gắn vào điện thoại thì có “âm thanh”

Như vậy “điện” tùy duyên ứng hiện nhiểu hiện tượng nhưng điện không có biến đổi, không thể nói “điện” biến đổi lúc nóng, lúc lạnh …

Điều này giúp ta hiểu tuy chúng sinh đều có Phật tánh thanh tịnh, nhưng hiện thấy chúng sinh đầy phiền não, vô minh, đó là tùy duyên. Nếu khôngPhật tánh là Thể thì cũng không có Chúng sinh là Dụng. Tin Đại thừa là tin chúng sinh đểu có Phật tánh, là một điều rất có cơ sở, rõ ràng.

 

** Trong việc tu hành có nhiều hiểu lầm khiến việc tu hành gặp khó khăn.

Lẽ thường là có nhiều pháp tu nên để ý là có pháp tu đặt căn bản sai lệch nên khiến việc tu hành gặp nhiều trở ngại.

Thí dụ là khi Ngũ tổ Hoàng Nhẫn muốn chọn người kế thừa làm vị tổ thứ sáu nên yêu cầu đệ tử trình kệ để xét ai xứng đáng. Sư Thần Tú là vị giáo thọ trình kệ nói Tâm như đài gương sáng cần phải lau chùi cho hết bụi bậm. Còn Huệ Năng, chỉ là một cư sĩ lo việc giã gạo, không biết chữ, chưa từng lên thiền đường để tu học. Nhưng ngài đã trình một bài kệ trong đó có câu “bản lai vô nhất vật” và vì vậy đã được Ngũ tổ nhận ra đó là người đã “thấy tánh” nên truyền y, pháp để làm tổ thứ sáu của Thiền tông Trung hoa. Ngũ tổ nhận thấy rằng sư Thần tú còn chấp tướng vì cho rằng có gương, có bụi và phải lau chùi gương, như vậy không đúng với kinh Kim cang là “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Còn ngài Huệ Năng đã thấy được “xưa nay không một vật” tức là đã thấu nghĩa  lời Phật trong kinh Kim cang.

Pháp tu “lau, chùi gương” của Thần Tú, còn gọi là Tiệm giáo, không hẵn là không đúng, nhưng chưa hợp với tông chỉ của Thiền tôngĐốn giáo. Đó là vì phải dẹp “sóng” để thấy “nước”.

Hiện nay có nhiều pháp tu Thiền tu theo pháp “lau chùi gương” như: phải “ diệt trừ vô minh”, phải dẹp trừ “vọng niệm”, phải “quán tịnh” … để thấy Phật tánh hiển hiện.

Các tổ Thiền tông đã chỉ những sai lầm đó:

Lục tổ Huệ năng nói rõ:

Này Thiện tri thức, lại có người dạy ngồi khán tâm quán tịnh, không động không khởi, từ đây mà lập công khóa, người mê không hiểu liền chấp thành ra điên cuồng; những người như thế này thật là đông, dạy nhau như thế, nên biết đó là lầm lớn.” (Phẩm Định Huệ).

Thiền sư Huyền giác trong bài “Chứng đạo ca” có nói:

“Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thực tánh tức Phật tánh

Ảo hóa không thân tức Pháp thân.”

 

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân”. Nếu chỉ lo “trừ vọng tưởng” và “cầu chân” thì việc tu hành không đạt được kết quả tốt.

“Vô minh thực tánh tức Phật tánh”, vậy muốn trừ Vô minh để thấy Phật tánh là điều không hợp lý. Cho nên phải thấy thực tánh của “vọng niệm” cũng là Phật tánh, nên nói phải diệt “vọng niệm” để thấy Phật tánh cũng là điều không đúng.

Ảo hóa không thân tức Pháp thân.”. Ngay cái thân ảo hóa này tức là “Pháp thân”, đâu phải tìm kiếm ở đâu nữa. Không có Pháp thân thì cũng không có cái thân “ảo hóa” này.

                                                                                      

Nói tóm lại Luận Đại thừa khởi tín của tổ Mã Minh là một bộ luận rất hữu ích, cần thiết cho những Phật tử muốn có lòng tin xác đáng vào Đại thừa nói chung, và Thiền tông nói riêng.

 

Tài liệu tham khảo:

- Yoshito S. Hakeda: The awakening of faith.2006

- Master Chi Hoi: Understanding the awakening of faith in the Mahayana.

- Timothy Richard: The awakening of faith in the Mahayana doctrine. 1907

- Thích Thanh Từ: Luận Đại Thừa Khởi Tín, Giảng giải

- Thich Thiện Hoa: Luận Đại Thừa Khởi Tín, Lược giải, Phật học phổ thông, bài thứ 10 và 11.

- Thích Tâm Châu: Băng giảng, Luận Đại Thừa Khởi Tín.

- Luận Đại thừa khởi tín: Hán dịch: Chân Đế Tam Tạng Pháp Sư- Trí Khải Đại Sư soạn,

HT Thích Liêm Chính dịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4028)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5212)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2678)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6157)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3071)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3121)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3327)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3254)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3311)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4579)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2745)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5239)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3892)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3857)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3222)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4161)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5075)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3536)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6769)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3981)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3235)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3114)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2977)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5888)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4649)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3509)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2913)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3323)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4444)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5741)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6658)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3742)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4547)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4627)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3990)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3416)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4656)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5857)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3653)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4705)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4473)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4548)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4282)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4614)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8239)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3938)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5736)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5227)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6876)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6200)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6010)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5826)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6315)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6807)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4992)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5584)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3803)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5441)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10492)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant