Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Tia sáng nội tại

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12248)
17. Tia sáng nội tại


Khi Ánh sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết, một hành giảkinh nghiệm sẽ duy trì sự tỉnh giác trọn vẹn và hội nhập với ánh sáng ấy, nhờ thế đạt giải thoát. Nhưng nếu chúng ta không nhận ra Ánh sáng Căn bản thì ta sẽ chạm mặt với Bardo kế tiếp, đó là Bardo của pháp tánh. Giáo lý về Bardo của pháp tánh là một giáo lý rất đặc biệt của Dzogchen qua nhiều thế kỷ. Lúc đầu tôi ngần ngại không dám trình bày công khai giáo lý thiêng liêng này, và quả thực tôi đã không làm nếu không có người đi trước. Tử Thư Tây Tạng và một số sách nói về Bardo của pháp tánh đã được xuất bản, và đã đưa đến những kết luận ngây ngô. Bởi thế tôi thấy thực quan trọng, và đã đến lúc nên có một giải thích rõ về Bardo này đúng như nghĩa chân thực của nó. Có lẽ tôi cũng nên nhấn mạnh rằng tôi chưa đi vào chi tiết về những pháp tu cao cấp bao hàm trong đó, mà pháp nào cũng cần phái có thầy, và sự liên hệ với bậc thầy ấy phải được giữ thật hoàn toàn trong sáng.

Tôi đã thu thập tuệ giác từ nhiều nguồn để viết chương này - mà tôi cho là một trong những chương quan trọng nhất của quyển sách - càng sáng sủa càng hay. Tôi hy vọng nhờ đấy mà một vài người trong các bạn có thể liên lạc với giáo lý phi thường này, và được cảm hứng để tra tầm thêm, và khởi sự tu tập.
 
 

Bốn giai đoạn của pháp tánh

Phạn ngữ Dharmata. Tạng ngữ Cho nyi, nghĩa là bản chất nội tại của mọi sự vật, tinh yếu của các pháp. Pháp tánhsự thật nguyên vẹn, vô điều kiện, bản chất của thực tại, hay thật tánh của hiện tượng giới. Những gì chúng ta đang bàn là toàn thể căn bản để hiểu tự tánh của tâm và bản chất của vạn sự vạn vật.

Sự chấm dứt tiến trình tan rã và xuất hiện Ánh sáng Căn bản đã mở ra một chiều không gian hoàn toàn mới mẻ, bây giờ bắt đầu phơi bày. Một cách giản dị để giải thích điều này là so sánh với cách đêm chuyển thành ngày. Giai đoạn cuối của tiến trình tan rã khi chết là kinh nghiệm màu đen của giai đoạn “thành tựu”. Nó được mô tả “giống như bầu trời trùm trong màn đêm u tối” . Sự sinh khởi Ánh sáng Căn bản là như ánh sáng trong bầu trời trống rỗng không mây ngay trước lúc bình minh. Bây giờ, dần dần mặt trời pháp tánh bắt đầu lên cao trong vẻ tráng lệ huy hoàng của nó, thắp sáng mọi đường cong của trái đất ở mọi hướng. Tia sáng tự chiếu của tự tánh Rigpa xuất hiện một cách tự nhiêntỏa ra thành ánh sáng và năng lượng.

Cũng như mặt trời lên trong bầu trời trong sáng trống rỗng, sự xuất hiện ánh sáng của Bardo pháp tánh cũng sẽ nổi lên từ không gian lan khắp của Ánh sáng Căn bản. Cái tên chúng ta đặt cho sự trình diễn âm thanh, ánh sáng và màu sắc này là “hiện diện tự nhiên” , vì nó vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm, trong sự “trong sáng nguyên ủy”, mà vốn là nền tảng của nó.

Ðiều thực sự xảy ra là một tiến trình hiển bày, trong đó tâm và bản chất căn để của nó dần dần trở nên rõ rệt hơn. Bardo pháp tánh là một giai đoạn trong tiến trình ấy. Vì chính qua bối cảnh ánh sáng và năng lượng này mà tâm hiển thị trạng thái thuần tịnh nhất của nó. Ánh sáng Căn bản, để tiến đến sự hiển hiện của nó thành hình dạng trong Bardo kế tiếp, nghĩa là Bardo của tái sanh.

Tôi nhận thấy một điều rất đáng chú ý là vật lý học tân thời cũng đã chứng minh rằng khi tra tầm vật chất đến chỗ cùng cực thì nó được hiển bày dưới dạng một biển năng lượng và ánh sáng. “Dường như thể vật chất là ánh sáng được cô đọng lại, được làm cho đông lại... tất cả vật chất là một kết tinh của ánh sáng thành những mẫu mực di chuyển qua lại trung bình chậm hơn tốc độ ánh sáng”, nhà vật lý David Bohm nhận xét. Vật lý học tân thời cũng hiểu về ánh sáng trong nhiều phương diện : “Nó đồng thờinăng lượng và cũng là thông tin - nội dung, hình dáng, cơ cấu. Nó là tiềm năng của mọi sự” .

Bardo pháp tánh có 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn trình bày một cơ hội khác nữa để giải thoát. Nếu cơ hội này không được bắt lấy, thì giai đoạn kế tiếp sẽ mở ra. Sự giải thích mà tôi làm ở đây về Bardo này bắt nguồn từ mật điển Dzogchen, trong đó nói chỉ nhờ pháp tu cao cấp đặc biệt gọi là Togal, người ta mới có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của Bardo pháp tánh. Bởi thế, Bardo pháp tánh này ít nổi bật trong các giáo lý về sự chết trong truyền thống Tây Tạng. Ngay cả trong Tử Thư Tây Tạng, vốn cũng thuộc giáo lý Dzogchen, chuỗi liên tục 4 giai đoạn này cũng chỉ nói mơ hồ, hầu như hơi ẩn mật, và không xuất hiện trong một cơ cấu trật tự rõ ràng.

Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng danh từ chỉ có thể cho một vài hình ảnh khái niệm về những gì có thể xảy ra trong Bardo pháp tánh mà thôi. Những hình ảnh của Bardo này vẫn chỉ là khái niệm, khi mà hành giả chưa kiện toàn pháp môn Togal. Khi đã kiện toàn pháp tu ấy thì những gì tôi nói sau đây sẽ trở thành một kinh nghiệm cá nhân không thể chối cãi. Ðiều mà tôi cố trình bày ở đây chỉ là để cho bạn biết về hiện hữu của một chiều không gian kỳ diệu như vậy, và để hoàn tất sự mô tả của tôi về các cõi Trung Ấm. Tôi cũng hy vọng sâu xa rằng sự mô tả đầy đủ này có lẽ sẽ giúp nhắc nhở bạn phần nào, khi bạn kinh quá tiến trình chết.

1- Quang sắc - Phong cảnh bằng ánh sáng

Trong Bardo pháp tánh, bạn mang một cái thân bằng ánh sáng. Giai đoạn đầu của Bardo này là khi “hư không tan thành ánh sáng” .

Thình lình bạn ý thức đến một thế giới âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Tất cả những hình dạng quen thuộc thường ngày đã hòa tan thành một phong cảnh ánh sáng lan khắp. Ánh sáng này rực rỡ chói chang, trong suốt và nhiều màu, không bị giới hạn bởi một chiều hướng nào, lóng lánh và luôn luôn chuyển động. Tử Thư Tây Tạng gọi nó “giống như một ảo giác trên đồng trống trong hơi nóng mùa hè” . Màu sắc của nó là biểu hiện tự nhiên của thể tánh tứ đại trong tâm : hư không màu xanh, nước trắng, đất vàng, lửa đỏ và gió lục.

Những tướng sáng chói chang ấy trong Bardo pháp tánh an trú lâu mau hoàn toàn tùy thuộc mức độ an trú của bạn trong pháp môn Togal. Chỉ khi bạn thực sự làm chủ pháp môn này, bạn mới có thể ổn định kinh nghiệm ấy và xử dụng nó để đạt giải thoát. Nếu không, Bardo pháp tánh chỉ lóe lên như một làn chớp, mau đến độ bạn không ngờ nó đã xẹt tới nữa. Tôi lại phải nhấn mạnh rằng, chỉ một hành giả Togal mới có thể có sự trực nhận vô cùng quan trọng này, đó là những biểu hiện ánh sáng chói lọi này không hiện hữu ngoài tự tánh của tâm.

2- Hội nhập - Chư thiên

Nếu bạn không thể nhận ra đấy là biểu hiện tự nhiên của tự tánh - Rigpa, thì những quang sắc giản đơn khi ấy khởi sự hòa vào nhau, cô đọng lại thành những điểm sáng hay những trái cầu bằng ánh sáng đủ cỡ, gọi là tiklé. Trong những trái cầu sáng này, “những mandala chư thần an lạc và phẫn nộ” xuất hiện, khi những trái cầu khổng lồ bằng ánh sáng tụ lại, dường như chiếm trọn cả không gian.

Ðây là giai đoạn thứ hai, gọi là “ánh sáng tan thành nhất thể”, trong đó ánh sáng xuất hiện dưới hình dạng những đức Phật hay chư thiên đủ cỡ, đủ màu sắc hình dạng, cầm những đồ phụ tùng khác nhau. Ánh sáng họ chiếu ra thật chói chang làm lòa mắt, âm thanh thì ghê rợn như ngàn tiếng sấm sét nổi lên, còn những tia sáng thì như những tia laser đâm thủng mọi sự.

Ðấy là “42 thần an lạc và 58 thần phẫn nộ” mô tả trong Tử Thư Tây Tạng. Những vị này xuất hiện trong giai đoạn vài “ngày”, ở trong những mandala đặc biệt của họ gồm từng nhóm năm. Hình ảnh này chiếm trọn bầu trời bên trong tâm thức bạn, với một cường độ mãnh liệt mà nếu bạn không thể nhận ra thực chất của nó, thì nó có vẻ đe dọa ghê gớm. Bạn bị ngốn ngấu trong nỗi sợ hãi kinh hoàng, và bạn ngất xỉu.

Từ chính bạn và từ những vị thần ấy, có những chùm tia sáng nhỏ nhiệm tỏa ra, hòa tâm bạn với tâm chư thiên. Vô số trái cầu sáng xuất hiện trong những tia sáng càng tăng thêm rồi “cuộn lại”, khi tất cả chư thần đều tan vào trong bạn.

3- Tuệ giác

Nếu bạn vẫn chưa nhận ra được và an trú, thì giai đoạn kế tiếp mở ra, gọi là “nhất thể tan thành trí tuệ”.

Một chùm tia sáng nhỏ nhiệm khác tuôn phát từ tim bạn và một chùm ảo tượng khổng lồ mở ra ; tuy nhiên từng chi tiết vẫn sáng sủa rõ ràng. Ðây là sự trình bày những khía cạnh khác nhau của trí tuệ, hiện ra một lượt dưới dạng những tấm thảm trải ra bằng ánh sáng và trái cầu sáng rực rỡ.

Ðầu tiên, trên một tấm thảm ánh sáng màu xanh lục, xuất hiện những trái cầu sáng màu xa-phia xanh, gồm những nhóm năm. Phía trên đó, trên một thảm ánh sáng trắng, xuất hiện những trái cầu sáng chói lọi, trắng như pha-lê. Trên nữa, trên một thảm ánh sáng vàng nhạt, xuất hiện những trái cầu sáng màu vàng ròng, và trên nữa, một thảm ánh sáng đỏ nâng đỡ những trái cầu sáng đỏ màu hổ phách. Trên tất cả là một trái cầu ánh sáng rực rỡ như một cái lọng tỏa ra làm bằng lông chim công.

Sự trình diễn những quang sắc sáng chói này là biểu hiện của năm trí : pháp giới thể tánh trí, giống như hư không cùng khắp ; đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát tríthành sở tác trí. Nhưng vì trí Thành sở tác chỉ kiện toàn được vào lúc giác ngộ, nên nó chưa hiện ra ở đây. Bởi thế mà không có thảm ánh sáng màu lục và những trái cầu sáng, tuy thế nó nội tại trong tất cả màu sắc khác. Ðiều được biểu hiện ở đây là tiềm năng giác ngộ của ta. Thành sở tác trí chỉ xuất hiện khi ta thành Phật.

Nếu bạn không đạt giải thoát ở đây nhờ an trú không tán loạn vào tự tánh tâm, thì những tấm thảm ánh sáng và những trái cầu sáng trong đó, cùng với tự tánh bạn, tất cả sẽ tan vào trong trái cầu sáng như cái lọng lông chim công.

4- Hiện diện tự nhiên

Ðiều này báo hiệu giai đoạn cuối cùng của Bardo pháp tánh, “trí tuệ tan thành hiện diện tự nhiên”. Bây giờ, toàn thể thực tại trưng ra trong một cuộc trưng bày vĩ đại. Trước hết, trạng thái thanh tịnh nguyên thủy xuất hiện như một bầu trời mở rộng không mây, rồi chư thần an lạcphẫn nộ xuất hiện, tiếp theo là những cảnh giới chư Phật, và dưới đó là sáu cõi luân hồi.

Tính cách bao la vô hạn của cảnh tượng này thực hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng thông thường của chúng ta. Mọi khả tính đều được trình bày : từ trí tuệ và giải thoát cho đến mê mờ và tái sinh. Ở điểm này, bạn tự thấy mình có những khả năng nhận thứctrí nhớ sáng suốt. Chẳng hạn, với sự sáng suốt hoàn toàn, các giác quan không bị trở ngại, bạn sẽ biết các đời trước và đời sau, thấy suốt tâm địa người khác và có tri kiến về cả sáu nẻo luân hồi. Trong một thoáng, bạn có thể nhớ lại một cách sống động tất cả những giáo lý đã được nghe, và cả những giáo lý chưa từng nghe cũng thức dậy trong tâm bạn.

Toàn thể cảnh tượng này sẽ tan biến trở lại vào tinh chất sơ nguyên của nó, như một cái lều sụp đổ khi những sợi dây của nó bị cắt đứt.
 
 

*
 
 

Nếu bạn có được sự an trú bền vững để nhận ra những hiện tượng ấy là “tia tự chiếu” từ chính bản tâm Rigpa của bạn thì bạn sẽ được giải thoát. Nhưng nếu khôngkinh nghiệm của pháp tu Togal, bạn không thể nhìn vào những vị thần “sáng chói như mặt trời”. Thay vì thế, bạn đưa mắt nhìn xuống lục đạo, theo khuynh hướng tập quán nhiều đời trước. Chính những hình ảnh lục đạo bạn nhận ra sẽ dụ dẫn bạn trở lại vào lưới mê.

Trong Tử Thư Tây Tạng, những thời kỳ nhiều “ngày” được dành cho những kinh nghiệm về Bardo pháp tánh. Ðây không phải là những ngày dương lịch 24 tiếng đồng hồ, bởi vì trong phạm vi pháp tánh, chúng ta đã hoàn toàn vượt ra ngoài mọi giới hạn thời - không. Những “ngày” này là “ngày thiền quán” và ám chỉ thời gianchúng ta có thể an trú không tán loạn trong tự tánh tâm, hay trong trạng thái nhất tâm. Nếu không có sự thực tập an trú vững vàng trong thiền định thì những ngày ấy có thể ngắn như một phút, và sự xuất hiện chư thần an lạcphẫn nộ sẽ mau chóng đến độ ta không thể ghi nhận được.
 
 

Hiểu ngộ pháp tánh
 

Khi Bardo pháp tánh xuất hiện cho tôi

Tôi sẽ từ bỏ mọi kinh hoàng sợ hãi

nhận ra tất cả đều từ tâm tôi hiển bày

Và biết đấy là xuất hiện tự nhiên của Trung Ấm

Bây giờ khi đã đạt đến cao điểm

Tôi sẽ không sợ chư thần an lạcphẫn nộ sinh khởi từ chính tâm tôi.

Chìa khóa để hiểu Trung Ấm này là, tất cả mọi kinh nghiệm xảy ra trong đó đều là tia chiếu tự nhiên của tự tánh tâm. Ðiều đang xảy đến là, những khía cạnh khác nhau của năng lực giác ngộ của tâm thức đang được phóng thích (khi không còn bị thân xác trở ngại - DG). Hệt như những tia sáng cầu vồng nhảy múa do một bình pha-lê chiếu ra chỉ là sự hiển bày tự nhiên của nó, cũng thế những xuất hiện chói chang của pháp tánh không thể tách rời tự tánh của tâm. Chúng chính là những biểu hiện tự nhiên của nó. Bởi thế, dù có những hình ảnh ghê rợn đến đâu, Tử Thư Tây Tạng nói, chúng cũng không làm gì được bạn hơn là một con sư tử độn bông.

Tuy nhiên, thật không đúng khi gọi những xuất hiện này là “hình ảnh” hay “kinh nghiệm”, vì hình ảnh, kinh nghiệm tùy thuộc vào một tương quan nhị nguyên giữa chủ thể nhận thức và đối tượng bị nhận thức. Nếu chúng ta có thể nhận ra những tướng trạng ấy của Bardo pháp tánh, xem đấy là năng lực trí tuệ của chính tâm ta, thì khi ấy không có sai khác giữa cái thấy và cái bị thấy, và đây là một kinh nghiệm về bất nhị. Thể nhập hoàn toàn vào kinh nghiệm ấy là đạt giải thoát. Vì, như Kalu Rinpoche nói : “Giải thoát xảy đến vào lúc sau khi chết, khi tâm thức có thể nhận ra rằng những gì nó kinh nghiệm chỉ là tâm tạo” .

Tuy nhiên, bây giờ khi chúng ta không còn có nền tảng vật lý hay được bao bọc bởi một thế giới vật lý, thì những năng lực của tự tánh tâm được giải tỏa trong trạng thái Trung Ấm có thể trông như vô cùng thực, và dường như có một hiện hữu khách quan. Chúng dường như hiện hữu trong một thế giới bên ngoài chúng ta. Và khi không có sự tu tập vững chãi thì ta sẽ không biết đến một cái gì bất nhị, duy tâm tạo. Một khi chúng ta đã lầm cho những hiện tượng ấy là tách biệt với ta, là “những hình ảnh bên ngoài” thì chúng ta sẽ phản ứng lại bằng sợ hãi hoặc hy vọng, và thế là nó dẫn chúng ta đi vào mê lộ.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, sự nhận ra được nó là chìa khóa để giải thoát, ở đây cũng thế, trong Bardo pháp tánh. Nhưng ở đây, chính sự nhận ra “tia tự chiếu của tính giác Rigpa”, - sự biểu hiện năng lực của tự tánh - làm nên sự khác biệt giữa giải thoát hay tiếp tục chu kỳ tái sanh do nghiệp. Lấy ví dụ sự xuất hiện một trăm vị thần an lạcphẫn nộ, xảy ra trong giai đoạn của hai Bardo này. Những vị này gồm chư Phật thuộc 5 dòng họ, nguyên lý nữ tánh của những vị ấy, chư Bồ-tát nam nữ, chư Phật trong lục đạo và một số chư thần phẫn nộthần hộ mạng. Tất cả đều xuất hiện giữa ánh sáng chói lọi của năm trí.

Chúng ta phải hiểu những Phật và Bồ-tát này như thế nào ? - “Mỗi hình dạng thuần tịnh trong đây tiêu biểu một viễn cảnh giác ngộ của một phần kinh nghiệm bất tịnh của chúng ta” . Năm vị Phật thuộc dương tánh là khía cạnh thanh tịnh của năm uẩn làm nên tự ngã. Năm trí của Phật là khía cạnh thanh tịnh của năm cảm xúc tiêu cực. Năm vị Phật mẫu là những đức tính đại chủng thanh tịnh thuộc tâm, mà chúng ta kinh nghiệm thành ra đại chủng bất tịnh của thân và hoàn cảnh. Tám vị Bồ-tát là khía cạnh thanh tịnh của tám thức, và phần nữ tánh của họ là đối tượng của tám thức.

Dù là hình ảnh thanh tịnh năm vị Phật thuộc năm dòng họ với những loại trí tuệ hiện ra, hay hình ảnh bất tịnh của năm uẩn và những cảm xúc tiêu cực của chúng xuất hiện, bản chất của những hình ảnh ấy chỉ là một. Sự khác nhau là ở thái độ chúng ta khi nhận ra những hình ảnh ấy, và ở chỗ ta có nhận ra rằng chúng vốn xuất phát từ nền tảng của tự tâm ta hay không.

Hãy lấy ví dụ một cái gì xuất hiện trong tâm phàm tình của ta như là một ý tưởng về tham dục ; nếu bản chất thực của nó được nhận ra, thì nó khởi lên - tách rời chấp thủ - như là “Diệu quan sát trí”. Thù ghét và giận dữ, khi nhận chân được nó lìa chấp thủ, thì nó khởi lên với sự trong sáng như kim cương, và đấy là “Ðại viên cảnh trí”. Khi ngu si được nhận chân, nó khởi lên như là ánh sáng tự nhiên rộng lớn không có khái niệm, gọi là “Pháp giới thể tánh trí”. Kiêu mạn, khi được nhận chân, được thực chứng như là bất nhịbình đẳng, thì đó là “Bình đẳng tánh trí”. Ganh tị, khi được nhận chân, thì thoát khỏi thiên vịchấp thủ, và khởi lên như là “Thành sở tác trí” . Vậy, năm cảm xúc tiêu cực khởi lên như là hậu quả trực tiếp của sự không nhận chân được bản tánh thực của chúng. Khi được nhận chân thì chúng được thanh lọc và giải thoát, và khởi lên không khác gì hơn là sự hiển bày của năm trí.

Trong Bardo pháp tánh, khi bạn không nhận ra được những tia sáng của năm trí ấy, thì ngã-chấp-thủ sẽ đi vào nhận thức của bạn, cũng như một người lên cơn sốt cao khởi sự có ảo giác và thấy đủ thứ cảnh tượng trước mắt. Bởi thế, chẳng hạn nếu bạn không nhận ra màu đỏ, ánh sáng hổ phách của Diệu quan sát trí, thì nó xuất hiện như một ngọn lửa, vì đó là tinh túy của hỏa đại ; nếu bạn không nhận ra thực chất ánh sáng màu vàng của Bình đẳng tánh trí, thì nó xuất hiện như là địa đại, vì đấy tinh túy của địa đại.v.v....

Ðấy là cái cách những tướng hiện ra trong Bardo pháp tánh sẽ bị biến hóa - khi ngã chấp đi vào trong nhận thức - thành ra có thực chất để nhập vào những căn bản vọng tưởng trong sinh tử.

Một bậc thầy Dzogchen dùng thí dụ băng và nước để chứng minh sự thiếu nhận thứcngã chấp diễn ra như thế nào : Nước thường là lỏng, một yếu tố có những tính chất kỳ diệu làm sạch và giải khát. Nhưng khi gặp lạnh nó đông lại thành băng giá. Cũng thế, mỗi khi ngã chấp xuất hiện, nó củng cố vừa kinh nghiệm bên trong của ta vừa cái cách ta nhìn thế giới quanh mình. Nhưng cũng như sức nóng mặt trời sẽ làm cho băng tan thành nước, dưới ánh sáng của sự trực nhận, bản chất trí tuệ của chúng ta không còn bị trói buộc (bởi ngã chấp - DG) sẽ hiển bày.

Bây giờ ta có thể thấy rõ làm thế nào - sau khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, rồi Bardo pháp tánh xuất hiện - mà sinh tử thực sự đã khởi lên như hậu quả của sự không nhận ra được bản tâm trong cả hai lần ấy. Lần đầu Ánh sáng Căn bản, nền tảng (hay Tướng - DG) của tự tánh tâm, đã không được nhận ra, nếu nhận được, là ta đã đạt giải thoát. Lần thứ hai năng lực (hay Dụng) của tự tánh ấy xuất hiện, và đó là một cơ hội thứ hai để giải thoát ; nhưng nếu nó không được trực nhận thì những cảm xúc tiêu cực khởi lên, cô đọng lại thành nhiều nhận thức sai lầm khác nhau, cùng nhau tiếp tục tăng trưởng những cảnh giới huyễn mộng mà ta gọi là sinh tử, giam giữ ta trong chu kỳ tái sanh. Toàn thể sự tu tập tâm linh, như vậy, cốt là để lật ngược cái tình huống mà tôi muốn gọi là quá trình vô minh, để chấm dứt tạo tác, chấm dứt củng cố những nhận thức sai lạc chằng chịt lệ thuộc vào nhau, những thứ đã bẫy ta vào cái thực tại huyễn hóa do chính ta bày đặt.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết, ở đây trong Bardo pháp tánh cũng thế, chưa chắc đã được giải thoát. Vì khi ánh sáng trí tuệ chiếu ra, nó còn kèm theo một loạt những âm thanh và ánh sáng ấm áp dịu dàng hấp dẫn hơn, không tràn ngập, không chói chang như ánh sáng trí tuệ. Những ánh sáng mờ nhạt này - có màu khói nhạt, màu vàng, lục, xanh, đỏ và trắng - là những khuynh hướng tập quán vô thức trong ta tích lũy do giận dữ, tham lam, ngu si, nhục dục, ganh tị và kiêu mạn. Ðấy là những cảm xúc đã tạo ra sáu cõi luân hồi hay lục đạo : địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người, a tu lachư thiên.

Nếu chúng ta không nhận raan trú pháp tánh của tự tâm trong đời sống thường ngày (nghĩa là ngồn gốc 6 cõi ở ngay trong tâm thức - DG), thì theo bản năng chúng ta sẽ bị lôi cuốn về phía những ánh sáng mờ của lục đạo, vì khuynh hướng chấp thủ cố hữu nơi ta khởi sự thức dậy. Tâm ta lùi lại vì cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng trí tuệ chói chang. Những ánh sáng ấp áp, sự mời gọi của những khuynh hướng thường ngày, dụ dẫn chúng ta vào một tái sanh mới, được định đoạt bởi cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất (trong 6 thứ nói trên) trong nghiệp thức chúng ta.

*
 
 

Ta hãy lấy một ví dụ sự xuất hiện của một trong những vị Phật trong Tử Thư Tây Tạng để minh họa toàn thể tiến trình này. Bậc thầy hay bạn đạo nói với thần thức người chết như sau :

Này thiện nam/nữ, hãy lắng nghe không tán loạn !

Vào ngày thứ ba, một ánh sáng sẽ sanh khởi, đó là tinh chất của địa đại. Ðồng thời, từ cõi Phật phương Nam, gọi là “thế giới quang vinh” đức Phật Bảo Sanh sẽ xuất hiện trước ngươi, thân ngài màu vàng, tay cầm viên bảo châu như ý. Ngài ngồi trên tòa có những con ngựa đỡ và được ôm bởi Phật mẫu Mamaki, nguyên lý nữ tánh của ngài. Xung quanh ngài là hai Bồ-tát dương tánh : Hư Không Tạng (Akashagarbha) và Phổ Hiền (Samantabhadra), và hai Bồ-tát nữ tánh : Mala và Dhupa, làm thành 6 vị Phật ở trong bối cảnh ánh sáng cầu vồng.

Tính thuần tịnh nội tại của thọ uẩn - Bình đẳng tánh trí - một bầu ánh sáng vàng chói lọi, được trang trí bằng những trái cầu cũng bằng ánh sáng (tiklés) lớn nhỏ đủ cỡ, trong suốt rực rỡ, con mắt trần không thể chịu nổi, sẽ tuôn tràn về phía ngươi từ nơi tim của Phật Bảo Sanh và nguyên lý nữ tánh của ngài, và đâm xoáy tim ngươi đến nỗi con mắt ngươi không thể nào nhìn vào đó.

Vào cùng lúc ấy, cùng với tia sáng trí tuệ, có một ánh sáng xanh của cõi người chiếu về phía ngươi, xoáy vào tim ngươi. Khi ấy, bị kiêu mạn thúc đẩy, trong nỗi kinh hoàng ngươi chạy trốn ánh sáng vàng quá chói lọi kia, nhưng lại thích ánh sáng xanh của cõi người, và bị dính mắc vào đó.

Lúc ấy, ngươi đừng sợ ánh sáng vàng chói chang, hãy nhận ra đó là trí tuệ. Hãy an trú tự tánh ngươi trong đó một cách thoải mái, vô vi. Hãy tin tưởng vào đó, hãy có sự sùng kính và khát khao đối với nó. Nếu ngươi nhận ra nó là tia chiếu tự nhiên của tự tánh Rigpa ngươi, thì dù cho ngươi không có sùng kính, chưa đọc kinh cầu nguyện, tất cả chư Phật và ánh sáng ấy cũng sẽ tan hòa bất ly với ngươi, và ngươi sẽ đạt đến cõi Phật.

Nếu ngươi không nhận ra đấy là tia chiếu tự nhiên của tự tánh ngươi, thì hãy có lòng sùng kínhcầu nguyện, nghĩ : “Ðây là ánh sáng năng lực từ bi của Phật Bảo Sanh. Con xin quay về nương tựa ngài” . Vì đó quả thực là Phật Bảo Sanh đang đến hướng dẫn ngươi trong nỗi kinh hoàng của cảnh Trung Ấm, đó là những móc câu bằng ánh sáng của năng lực tâm đại bi, bởi thế ngươi hãy để niềm sùng kính tràn ngập tim ngươi.

Ðừng thích trú trước ánh sáng xanh của cõi người. Ðây là con đường hấp dẫn của những khuynh hướng, tập quán mà ngươi đã tích lũy bằng kiêu mạn mãnh liệt. Nếu ngươi quyến luyến với nó, ngươi sẽ tái sanh vào cõi người, ở đó ngươi sẽ kinh quá những đau đớn của sinh, già, bệnh, chết ; ngươi sẽ lỡ mất cơ hội ngoi đầu lên khỏi vũng lầy sinh tử. Ánh sáng xanh dịu này là một chướng ngại bít lấp con đường giải thoát, bởi thế ngươi đừng nhìn vào đó, mà hãy từ bỏ kiêu mạn ! Từ bỏ những khuynh hướng tập quán của nó. Ðừng quyến luyến ánh sáng xanh dịu, đừng khát khao nó. Hãy sinh tâm sùng kínhkhát ngưỡng ánh sáng vàng chói chang, hãy tập trung toàn sự chú ý của ngươi vào đức Phật Bảo Sanhcầu nguyện :

“Than ôi, vì kiêu mạn con đã lang thang trong sinh tử.

Xin đức Phật Bảo Sanh dẫn đường cho con

Trên đạo lộ quang minh rực rỡ vốn là “Bình đẳng tánh trí”.

Xin Phật mẫu Mamaki tối thượng của ngài hãy đi sau con

Xin các ngài giúp con vượt qua ngõ hiểm nghèo Trung Ấm

Và đưa con đến trạng thái toàn giác”.

Nhớ đọc lời cầu nguyện này trong niềm sùng kính sâu xa, ngươi sẽ tan thành ánh sáng cầu vồng trong tim của Phật Bảo Sanh và Phật mẫu Mamaki, trở thành một báo thân Phật trong cõi Phật “Quang vinh” phương Nam”.
 
 

Sự mô tả đức Phật Bảo Sanh xuất hiện kết thúc với lời giải thích rằng nhờ vị thầy hay bạn đạo “khai thị” như thế nhiều lần, người chết sẽ được giải thoát, dù năng lực họ có kém cỏi bao nhiêu. Tuy nhiên, Tử Thư nói, dù đã được khai thị nhiều lần, có những người vì ác nghiệp nên không nhận ra, không giải thoát được. Bị giao động bởi tham dục, si mêkinh hoàng trước những ấm thanh ánh sáng ấy, họ sẽ chạy trốn. Bởi thế, vào “ngày” hôm sau, vị Phật kế tiếpA Di Ðà với ánh sáng vô lượng, cùng với mandala chư thần của ngài sẽ xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng với quang sắc màu đỏ chói lọi, đồng thời lại có ánh sáng đục hấp dẫn của ngạ quỷ đạo, do tham dục thấp hèn phát sinh. Tương tự như thế, Tử Thư lần lượt giới thiệu sự xuất hiện của chư thần an lạcphẫn nộ.
 
 

*
 
 

Người ta thường hỏi tôi : “Chư thần có hiện ra cho một người Tây phương không ? Nếu có, thì có phải hiện dưới hình dạng quen thuộc của phương Tây hay không ?”

Những sự hiển bày của Bardo pháp tánh được gọi là “hiện diện tự nhiên”. Ðiều này có nghĩa chúng nội tại vô điều kiện, hiện hữu trong tất cả chúng ta. Sự khởi lên của chúng không tùy thuộc sự chứng đắc nào của ta, nhưng sự nhận ra chúng thì có tùy thuộc. Những hình ảnh ấy không phải chỉ xuất hiện cho người Tây Tạng, mà đấy là kinh nghiệm phổ quát và căn để, nhưng cái cách theo đó chúng được thấy, tùy thuộc bối cảnh sống của chúng ta. Vì tự bản chất chúng là vô giới hạn, nên chúng có tự do xuất hiện dưới bất cứ hình dạng nào.

Bởi thế, chư thần có thể mang hình dạng mà chúng ta thường quen thuộc nhất trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, với hành giả Tây phương, thì chư thần có thể mang hình dạng chúa Ki-tô hay đức Mẹ đồng trinh. Thông thường, toàn thể sự hiển bày giác ngộ của chư Phật là giúp chúng ta, bởi thế nên chúng có thể mang hình dạng nào thích hợplợi ích nhất cho chúng ta. Nhưng dù dưới hình dạng nào thì điều quan trọng vẫn là phải nhận ra rằng tự bản chất, không có sự khác nhau nào cả giữa những biểu hiện ấy.
 
 

Sự trực nhận

Giáo lý Dzogchen giải thích rằng, cũng như một người sẽ không nhận ra Ánh sáng Căn bản nếu không có sự thực chứng tự tánh tâm và một kinh nghiệm vững vàng về pháp tu Trekcho ; cũng thế nếu không thực hành pháp Togal thì không thể nhận ra được Bardo pháp tánh. Một hành giả Togal thuần thục đã kiện toàn và an trú trong ánh sáng của tự tánh thì khi sống, họ đã có kinh nghiệm trực tiếp về những biểu hiện sẽ nổi lên trong Bardo pháp tánh. Năng lượng và ánh sáng này như vậy nằm ngay trong chúng ta, mặc dù hiện tại chúng bị khuất lấp. Tuy nhiên, khi thể xác và những tầng thô của tâm thức đã chết, thì chúng tự nhiên được phóng thích, và âm thanh, màu sắc và ánh sáng của tự tánh ta sẽ chiếu sáng rực rỡ.

Tuy nhiên, không phải chỉ có nhờ pháp Togal mới có thể xử dụng Bardo này để giải thoát. Những hành giả Mật tông trong Phật giáo sẽ liên kết những tướng xuất hiện trong Bardo pháp tánh với pháp tu của riêng họ. Trong Mật tông, nguyên lý chư thần là một cách truyền thông. Chư thần được hiểu như những ẩn dụ, nhân cách hóa và biểu trưng cho những năng lựctính chất vô biên của tâm trí tuệ chư Phật. Sự nhân cách hóa những năng lựctính chất ấy dưới hình dạng chư thần sẽ giúp cho hành giả nhận ra chúng và thiết lập tương quan với chúng. Nhờ tu tập sự tạo ra rồi thâu lại hình ảnh ấy vào tâm, qua phương pháp quán tưởng, mà hành giả nhận ra rằng cái tâm quán ra chư thần và chư thần được quán ra ấy không phải là hai thứ tách biệt.

Trong Phật giáo Tây Tạng, mỗi hành giả có một yidam, hình ảnh một vị Phật hay Bồ-tát nào mà họ cảm thấy có duyên với mình, và thường triệu thỉnh vị ấy để quán tưởng hình ảnh trong tim mỗi khi tập luyện. Thay vì xem những tướng của pháp tánhhiện tượng bên ngoài, hành giả Mật tông sẽ liên kết chúng với yidam, hình ảnh vị Phật của riêng họ, hòa nhập làm một với tướng ấy. Bởi vì trong khi tu luyện, họ đã nhận ra yidam là tia chiếu tự nhiên của tâm giác ngộ, nên (khi chết) họ có thể nhìn các tướng trong Bardo pháp tánh như là biểu hiện của yidam ấy. Với cái thấy thuần tịnh này, hành giả sẽ nhận ra bất cứ gì xuất hiện trong Bardo đều là những thị hiện của yidam. Rồi nhờ năng lực tu tập và sự ban phước của yidam, vị ấy sẽ đạt giải thoát trong Bardo pháp tánh.

Ðấy là lý do trong truyền thống Tây Tạng có lời khuyến cáo - cho cư sĩ thế tục và những hành giả thông thường chưa quen thuộc với pháp tu yidam - rằng bất cứ tướng gì khởi lên, đều nên quán ngay đấy là đức Quán Thế AÂm, vị Phật của lòng bi mẫn, hoặc đức A Di Dà, hoặc Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) tùy theo vị nào họ quen thờ nhất. Nói tóm lại, bất cứ cách nào bạn thường tu tập trong đời sống, thì cũng bằng cách đó bạn cố mà nhận ra các tướng trong Bardo pháp tánh.

Một gợi ý khác để nhìn Bardo pháp tánh là, hãy xem nó như thế giới nhị-nguyên được hiển bày trong hình dạng thuần tịnh tối hậu của nó. Chúng ta được đưa ra phương tiện để giải thoát, song đồng thời chúng ta cũng bị dụ dẫn bởi tiếng gọi của những bản năng và tập quán trong ta. Ta kinh nghiệm năng lực thuần túy của tâm linhđồng thời cũng kinh nghiệm sự rối ren mờ mịt của nó. Dường như thể ta đang được nhắc nhở phải làm một quyết định, phải chọn lựa giữa đường này hay đường kia. Dĩ nhiên chúng ta có được cái quyền chọn lựa ấy hay không còn tùy thuộc vào mức độ hoàn tất của việc tu tập của ta trong lúc sống.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11927)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12828)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26677)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13077)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27060)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32909)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31700)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32611)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13046)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12168)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17523)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18768)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12592)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11795)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13147)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12240)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12513)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11659)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12022)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10629)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10940)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28355)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11186)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11391)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13612)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11056)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11452)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10910)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11209)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26393)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12411)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14904)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11073)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20375)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12375)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11503)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10788)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23968)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11873)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12326)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12862)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11070)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38760)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10560)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12223)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17731)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25111)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10569)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10783)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12065)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11340)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11617)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14756)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21453)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9923)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11286)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27404)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11192)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11856)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11019)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant