Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Đức Học Phật Giáo Qua Ngũ Giới

01 Tháng Mười Hai 202207:33(Xem: 1564)
Đạo Đức Học Phật Giáo Qua Ngũ Giới
Đạo Đức Học Phật Giáo Qua Ngũ Giới

Thích Nữ
 Huệ Nhật

Đạo Đức Học Phật Giáo Qua Ngũ Giới


DẪN NHẬP

Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đờiPhật giáo với tinh thần từ bi và trí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã luôn đồng hành cùng những thăng trầm của cuộc sống con người. Điều đó thể hiện qua việc Phật giáo truyền tải nguồn năng lượng yêu thươnggiáo hóa chúng sanh bằng con đường đạo đức trí tuệ, tự tìm lại chân tâm Phật tánh nơi mỗi người. Và dù ở thời đại nào, Phật giáo vẫn luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nền tảng đạo đức con người thông qua ngũ giới căn bản nhằm giúp hàng Phật tử thọ trì

KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC

Đạo đức có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Thuật ngữ đạo đức (moral) được đề xuất trong triết học khoảng thế kỷ IV TCN và gắn liền với tên tuổi Aristotle, là thời kỳ người ta quan niệm đạo đức là những chuẩn mực chung chung nhằm điều chỉnh hành vi con người, để tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội.

Theo từ điển Bách khoa: “Đạo đức học hay triết học đạo đức là một nhánh của triết học liên quan đến việc hệ thống hóa, bảo vệ và khuyến nghị các khái niệm về hành vi đúng và sai. Lĩnh vực đạo đức học cùng với mỹ học, liên quan đến các vấn đề giá trị và do đó bao gồm nhánh triết học được gọi là tiên đề học” [1]. Đạo đức học tìm cách giải quyết các câu hỏi về đạo đức con người bằng cách định nghĩa những khái niệm, như: thiện và ác, đúng và sai, đức hạnh và tệ nạn, công lý và tội phạm. Là một lĩnh vực nghiên cứu trí tuệtriết học đạo đức cũng liên quan đến các lĩnh vực tâm lý học đạo đức, đạo đức học mô tả và lý thuyết giá trị.

Theo từ điển Tiếng Việt, đạo đức là: “Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luậnxã hội thừa nhậnquy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội” [2]. Và từ điển Bách khoa Phật giáo nêu lên định nghĩa: “Đạo đức được hiểu một cách tổng quát như là sự thẩm định giá trị về phẩm hạnh, cách cư xử, khuynh hướng, những mục tiêuý địnhlối sống con người và những tổ chức xã hội” [3].

Qua những định nghĩa tiêu biểu trên, có thể thấy, đạo đức là tập hợp những tiêu chuẩn được số đông thừa nhận, những quy tắc điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, với tự nhiên và được áp dụng chung cho cộng đồng, nhằm thiết lập một xã hội ổn định theo hướng tốt đẹplành mạnhNgoài rađạo đức thường được hiểu là những gì cao quý tạo nên văn hóa cộng đồng và xã hội.

BẢN CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC

Đạo đức tôn giáo lấy việc xa lìa ngã chấp, ngã dục làm điều kiện trọng yếuĐạo đức gồm đức hạnh và phẩm chất (hạnh kiểm) được sử dụng theo hai nghĩa khác nhau. Đức hạnh là phẩm chất của cá nhân, là phẩm chất bẩm sinh về trí tuệ và tính cách hay thiên hướng muốn làm những việc đúng đắn trong một định lý. Hạnh kiểm cũng là một thói quen tương ứng với phẩm chất hay thiên hướngĐạo đức có ba loại phẩm chất là phẩm chất chính trực, phẩm chất do hoàn cảnh và phẩm chất rộng lượng hay đấu giá. Trong ba loại này, đức hạnh của phẩm chất chính trực là quan trọng nhất trong đời sống đạo đứcĐức hạnh về phẩm chất do hoàn cảnh là phụ thuộc vào loại vừa nêu và loại này chỉ có giá trị khi đồng hành với phẩm chất chính trực.

Đạo đức còn có sáu nguyên lý: Thứ nhất là khoa học đạo đức khách quan (diễn tả những tiêu chuẩn đạo đức trong những đất nước khác nhau. Thứ hai là khoa học chuẩn hóa về hạnh kiểm (những tiêu chuẩn đạo đức có giá trị). Thứ ba là triết lý đạo đức (kiểm định giá trị của những tiêu chuẩn đạo đức bằng cách xác quyết vị trí của chúng trong toàn bộ cuộc sống con người). Thứ tư là ứng dụng những tiêu chuẩn có giá trị trong những trường hợp cụ thể đặc biệt. Thứ năm là những nguyên tắc có sự cải tiến hạnh kiểm như mục tiêu đã được xác định của nó. Thứ sáu là nghệ thuật sống. Các nguyên lý này được xem là tiêu chuẩn cho nét đẹp cuộc đời, người có đạo đức là người đáng được quý trọngxây dựng nên xã hội tốt đẹpgương mẫu cho nhân loại.

Đạo đức là một vấn đề vô cùng phức tạp, đã được nhiều triết gia cũng như các nhà tư tưởng lớn trên thế giới bàn luận nhiều và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau theo từng thời đại. Chẳng hạn, theo quan điểm phương Tây, điển hình như triết gia Socrate thời Hy Lạp cổ đại cho rằng đạo đức thực tiễn không căn cứ vào giáo lý hệ thống mơ hồ hay lệ thuộc thần học mà có thể tạo dựng một nền đạo đức phù hợp cho những người có tôn giáo hay không tôn giáocon người có thể nắm bắt tinh hoa cuộc sống cũng như ý nghĩa sự sống. Vì bản chất con người là thiện, nếu biết làm thiện sẽ là điều có lợi và đem lại sự dễ chịuthoải mái và ông cũng đưa ra những điều kiện của hạnh phúc.

Triết gia Platon lại cho rằng nghệ thuật sống, ý nghĩa sống và đạo đức con người không ở đâu xa mà ở trong sự thể hiện hòa điệu của một cá nhân. Khi hỏi về luân lý đạo đức, về sự công bằng, “ông còn nhấn mạnh lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân tùy thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ cấu xã hội chứ không thể nghiên cứu như một thái độ cá nhân” [4]. Còn Aristote đưa ra nhận định đạo đức tùy thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham muốn và con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Theo Karl Marx, đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện.

Ở Ấn Độ cổ đại, giới triết gia Bà-la-môn lấy Dharma làm chuẩn mực đạo đức. Họ xem bổn phận hành đạo của mỗi người trong đẳng cấp của mình (Dharma) là tư cách đạo đức của con người trong cuộc sống, chấp nhận bổn phận của mình trong đẳng cấp. Và Ấn Độ xem đạo đức chính là sự thể nhập hiện hữu, hòa điệu giữa người với thần linh, tự thân với vũ trụ [5].

Ở Trung Hoa cũng có các bậc hiền triết cho tư tưởng đạo đức như: Lão TửKhổng Tử,… Trong Đạo Đức Kinh có nói, muốn hạnh phúc lâu dàimọi người phải sống theo tiêu chuẩn đạo đức: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, trường cửu”; nghĩa là biết đủ thì không bị nhục, biết dùng thì không bị hại, như vậy mới tồn tại. Và trong phong cách làm việc thì “vô vi nhi bất vi” làm tất cả mọi công việc nhưng không chấp vào việc làm của mình. Theo Lão Tử, sống phải làm việc nhưng không tham, không tự đắc, không tự phụ và không kể công thì đó là con người đạo đức.

Giá trị đạo đức của triết học Khổng giáo là sự biểu hiện tình người trên cương lĩnh nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; đó là đạo làm người trong thiên hạ. Còn ba đặc tính trí, nhân, dũng là đức của con người trong thiên hạ. “Chính danh” là nguyên lý cơ bản để thiết lập trật tự luân lý đạo đức trong xã hội, nghĩa là vua tôi, cha con,… phải làm trọn đạo của mình. Những ai toàn vẹn đầy đủ những điều nêu trên là người có đạo đức.

Qua những khái niệm, quan điểm về đạo đức kể trên, chúng ta nhận thấy giữa Tây phương và Đông phương có một nền đạo đức tương giao và điểm gặp gỡ cơ bản về đạo đứcNgoài ra, còn một nền đạo đức có sự gặp gỡ những yếu tố trên và vượt lên những yếu tố đó nữa là đạo đức học Phật giáo.

ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

Đạo đức Phật giáo là những phẩm hạnh rất cụ thể, không xa rời truyền thống dân tộc và luôn thích nghi trong mọi thời đại, mọi điều kiệnPhật giáo quan niệm trí tuệ được giới hạnh (đạo đức) làm cho thanh tịnhGiới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có giới, ở đó có trí tuệ, ở đâu có trí tuệ, ở đó có giới! Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh [6]. Theo Hòa thượng Thích Minh Châu: “Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sanhđặc biệt là loài người chúng ta (…). Và nếp sống ấy phải được đem ra hành trìthực hiện, không phải để lễ bái cầu xin. Có thực hiện, người hành trì mới hưởng được hạnh phúcan lạcthiết thực hiện tại và ngay trong đời này” [7].

Đạo đức học Phật giáo là một hệ thống đạo đức lấy tinh thần Vô ngã làm nền tảng, thể hiện nếp sống bình đẳng và chánh hạnh, trong đó con người biết tự chủ kềm chế chính mình và khước từ những dục vọng thế gian. Nhắc đến đạo đức Phật giáo là nói đến tính nhân bản nghĩa là tất cả vì con người, vì hạnh phúc con ngườiĐạo đức đồng nghĩa với hạnh phúchạnh phúc đồng nghĩa với giải thoátĐạo đức Phật giáo là đạo đức nhân bản, là đạo đức con người, nền tảng đưa đến giải thoát [8]. Vì vậyđạo đức Phật giáo vượt lên trên các hệ tư tưởng khác, không những xây dựng một con người đức hạnh trong xã hội mà còn nâng con người lên vị trí thánh hiền. Những yếu tố căn bản và đặc điểm của đạo đức học Phật giáo là đạo đức Phật giáo dựa trên tinh thần tự lực, tự cường, ý thức tự nguyện, tự giác, không phải cầu xin hay cầu nguyện mà có được. Đó là nền đạo đức dựa trên hành động thiết thực, không phải trên lý thuyếtdựa trên thân khẩu ý thanh tịnhdựa trên nguyên lý Duyên sinhVô ngãNgoài ra, đấy còn là nền đạo đức tích cực, không phụ thuộc thần thánh, hướng nội và bình đẳnggiải thoátnhập thế. Qua những đặc điểm này, chúng ta có thể nhận định đạo đức đồng nghĩa với hạnh phúc và hạnh phúc đồng nghĩa với giải thoátĐạo đức Phật giáo vượt lên trên các hệ tư tưởng, không những xây dựng nên một con người đức hạnh trong xã hội mà còn là nấc thang đưa hành giả tu tập tiến gần đến cảnh cửa Niết Bàn an vui.

NGŨ GIỚI – NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA VÀ TẠI GIA 

Khái niệm Ngũ giới

Sila là chữ Pàli, được phiên âm là Thi-la, dịch nghĩa là Giới. Như vậy, Giới là những điều răn cấm do Đức Phật chế định cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia dùng để ngăn ngừa tội lỗi của tam nghiệp. Do vậy, Giới được định nghĩa là phòng phi chỉ ác, biệt biệt giải thoát, xứ xứ giải thoáttùy thuận giải thoátthanh lươngchế ngự [9]. Giới là những điều răn cấm, không nên phạm [10]. Giới bao gồm giới tự nhiên và giới xã hộiGiới tự nhiên nghĩa là các quy luật tự nhiên trong đời sống người xuất gia như làm thiện, lánh ác, giữ gìn thân khẩu ý,… mà không bó buộc. Giới xã hội là giới luật mang tính tập thể, mang tính xã hội.

Ngũ giới là năm điều răn cấm của Đức Phật chế ra dành cho hàng xuất gia và tại giaNgũ giới gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Theo S. Tachibana phát biểu: “Năm giới này được gọi là kho báu của đạo hạnhThực hành trọn vẹn năm giới này được gọi là hoàn thiện về đạo đức” [11]. Ngũ giới là nền tảng cơ bản, là chuẩn mực đạo đức cho một con người có nhân cách và nhân phẩm toàn diện. Trong Phật giáomột đời sống đạo đức là một đời sống hạnh phúcĐức Phật luôn dạy các đệ tử phải tôn trọng và giữ gìn giới luật để đảm bảo một đời sống an lạc cho chính mình.

Theo Hòa thượng Thích Minh Châu: “Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sanhđặc biệt là loài người chúng ta (…). Và nếp sống ấy phải được đem ra hành trìthực hiện, không phải để lễ bái cầu xin. Có thực hiện, người hành trì mới hưởng được hạnh phúcan lạcthiết thực hiện tại và ngay trong đời này”. (Ảnh: sưu tầm)

Đầu tiên là giới không sát sanh: Không tự giết, không bảo người giết và không vui vẻ khi thấy người giết. Phàm là loài có tánh mạng không nên cố giết nhằm nêu cao đức hiếu sinh. Ngoài ra, không sát sanh đồng nghĩa với việc bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thay vào đó, luôn nuôi dưỡng lòng từ bi, con người sẽ không còn lòng thù hận, không còn chiến tranh. Từ đó, con người đến với nhau bằng lòng yêu thương và tôn trọng lẫn nhau: “Này các Tỳ kheo! Nếu có người ý thích sát sanh liền đọa địa ngụcngạ quỷsúc sanh; nếu sanh trong loài Người thọ mạng rất ngắn. Vì sao thế? Vì đoạn dứt mạng kẻ khác vậy. Thế nên, hãy học chớ sát sanh. Như thế, các Tỳ kheo, hãy học điều này!” [12].

Giới thứ hai là không trộm cắp: Của người không cho thì không được lấy để tạo sự công bằng cho xã hộiTôn trọng tài sản người khác, sống theo lương tâm và lẽ phải. Một khi lòng tham con người nổi lên, chỉ muốn lấy công sức và đồ vật người khác làm ra để hưởng thụ mà quên đi những nỗi lo và đau khổ của kẻ bị mất tài sản. Đây cũng gọi là hành động trái pháp luật, không có nhân đạo. Bên cạnh hành vi trộm cắp, những hành vi tham nhũng, trốn thuế, buôn lậu, mua bán chiếm đoạt và kiếm lời một cách bất chính… thậm chí khai thác tài nguyên bừa bãi cũng xem là trộm cắp.

Giới thứ ba là tà dâm: Giới này được Phật chế nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình của chính chúng ta và tôn trọng hạnh phúc kẻ khác. Bởi lẽ, sự thiếu chung thủy là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến ngoại tình, quan hệ bừa bãi và đưa đến đổ vỡ gia đình. Đây cũng chính là lý do pháp luật về luật hôn nhân gia đình của Nhà nước chỉ cho phép mối quan hệ một vợ một chồng và cổ vũ yêu thương chung thủy với nhau. Đối với người tại gia thì không được tà dâm nhưng với người xuất gia thì tuyệt đối không được dâm dục, vì nó là nguyên nhân của đầu mối sinh tử, người xuất gia phải đoạn trừ hẳn.

Giới thứ tư là không nói dốiChúng ta phải tôn trọng sự thật và giữ lòng thành tín với mọi người, gồm cả việc không được nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều hay nói lời hung ác. Lời nói dối luôn đi với tâm niệm ác, đánh lừa người khác, ngụy biện hầu thu lợi về cho bản thân và gây đau khổ cho kẻ khác. Như trong Kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala, Đức Phật đã dạy La-hầu-la hiểu nói dối rất nguy hại vì khi ý thức không biết xấu hổ, các việc ác đều làm ví như con voi xông trận không biết bảo vệ cái vòi của mình thì chắc chắn nó không sợ gì nữa [13]. Vì vậy chúng ta phải luôn nói lời chân thật, mỗi lời nói thốt ra đều đem đến lợi ích và an vui cho mọi người.

Cuối cùng là giới không uống rượu (các chất kích thích gây nghiện): Rượu cũng là một trong số nguyên nhân sanh ra các tội lỗi nguy hại, tâm trí mê mờ và là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Không uống rượu sẽ giữ được sức khỏe tốt và tâm trí sáng suốt. Không chỉ rượu mà còn không được tiêu thụ các sản phẩm ma túy, phim ảnh, sách báo đồi trụy vì chúng là những độc tố nguy hại [14].

Năm giới chính là năm nền tảng đạo đức cơ bản mà Đức Phật đã đặt ra cho các hàng tạo gia lẫn xuất gia thực hành, nhằm đem lại hạnh phúc tự thân và an vui cho kẻ khác, ngay đời hiện tại lẫn tương lai. “Khi một người giữ gìn năm giới này được thanh tịnh thì tâm người ấy được an ổntự tại vì biết rằng mình đang trú trong đạo đức, nghĩa là đang ở xa vực thẳm phi đạo đức. Từ sự an ổn đó người ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ngay trong hiện tại chính trong cuộc sống của mình ngay tại đây” [15]. Giá trị này đã cân bằng tâm sinh lý con người hài hòa với cuộc sống thời đại mà không mất đi chất truyền thống. Đây cũng chính là thước đo hệ quả tinh thần, là phương thuốc hữu hiệu và điều kiện thiết yếu làm nên một con người đúng nghĩa.

Nền tảng đạo đức của con người và xã hội

Có thể thấy, tầm quan trọng của việc thực hành năm điều răn dạy cơ bản của đạo đức làm người là chuẩn mực mang lại giá trị thiết thực cho toàn nhân loại, được các nhà triết họcxã hội học trên thế giới công nhận và biểu dươngNếu thế giới, quốc gia hay xã hội nào cũng thực hiện nghiêm túc năm giới này thì “không ai chối cãi rằng cõi đời sẽ là một đất sống nhiều hạnh phúc và an lạc hơn” [16].

Thực tế năm giới này được Đức Phật chế ra nhằm ngăn chặn những tật xấu. Chỉ khi nào, chúng ta biết quý trọng sinh mạng mình thì cũng phải tôn trọng sinh mhạng người, bản thân chúng ta được an ổn mà sinh mệnh các loài được bảo toàn, các giống động vật quý hiếm cũng tránh khỏi thảm họa diệt vongChúng ta yêu quý tài sản mình thì phải tôn trọng tài sản người khác, muốn gia đình hạnh phúc thì phải tôn trọng hạnh phúc gia đình người khác. Không muốn ai lừa đảo chiếm đoạt của mình thì mình phải là người luôn tôn trọng sự thật. Muốn được thông minh và sáng suốt thì không gì hơn là từ bỏ việc uống rượu cũng như các chất kích thích vì chúng là những sản phẩm có độc tố nguy hại. Đó chính là lẽ sống của nhân loại mà không ai có thể chối bỏ được.

Người làm cha làm mẹ khi giữ được năm điều răn cấm này sẽ là gương sáng cho con cái noi theo. Sự giáo dục con cái có được kết quả tốt là do tư cách, hành động của cha mẹCha mẹ vì hy sinh cho con cái nên phải hạn chế những vui thích riêng tư có ảnh hưởng không tốt cho hạnh phúc gia đình. Từ đó, con cái thương yêuhiếu thuận và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu. Vì thế khi muốn dạy con trẻ, chính người lớn phải là tấm gương đạo đức tạo nên truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát triển và kế thừa.

Trường học cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào công cuộc đào tạo đạo đức cho học sinh sinh viên. Chẳng những truyền trao những kiến thức nền tảng về cách “đối nhân xử thế” và thực hành ngay trong thực tế thông qua các buổi văn nghệ, diễn tập… Cho nên, trường học cũng là nền tảng cốt tủy, từ đó đào tạo nên những thế hệ sau trở thành người đạo đức trong xã hội, giúp ích cho bản thân và cộng đồng.

Tinh thần giữ gìn ngũ giới là bước đầu trong đạo đức học Phật giáo. Người có đạo đức, sống giữ giới thì mọi người đều yêu thươngtôn trọng và kính nể. Không chỉ có uy tín trong cộng đồngtiếng tốt đồn xa, người sống có giới đức luôn thanh thản, tự tin với chính mình và mọi ngườiCon người biết tôn trọng giới luật là biết tôn trọng luật pháp Nhà nước, điều kiện tiên quyết của một con người trong xã hội.

Sự quan trọng của giới đối với người xuất gia và tại gia

Năm giới là căn bản đạo đức, là bậc thang đầu tiên bước vào Thánh đạo, đoạn trừ các tâm bất thiện và giúp các pháp lành tăng trưởngGiới luật là thọ mạng của Phật pháp, nếu hành giả nào nghiêm trì giới luật nghiêm mật sẽ đạt được nhiều lợi ích không thể nghĩ bàn, có được cuộc sống an lạc và thanh tịnh, tiến đến lộ trình giải thoát. “Tỳ kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, phải tôn trọng quý kính Ba la đề mộc xoa (giới luật), như đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo gặp của báu. Phải biết pháp nầy là Thầy của các ông, dù ta có trụ ở đời cũng không khác pháp này vậy” [17]. Đây chính những lời dạy của Đức Thế Tôn trước khi nhập diệt, xem giới luật như vị thầy hướng dẫn tu tập và tìm ra con đường đến bến bờ giác ngộ, chỉ cho chúng ta con đường nào nên đi và con đường nào phải tránh xa vì chúng chỉ đưa đến tội lỗitổn hại rừng công đức. Là người đệ tử Phật phải thành tâm giữ gìn năm giới, đó chính là sự cúng dường cao quý vì giới luật giúp chúng ta trở thành người có đức hạnh và gương mẫu [18].

Muốn xây dựng con người và xã hội đạo đức qua việc thọ trì năm giới thì trước tiên phải có những bậc mô phạm, sống đúng pháp và hành trì giới luật tinh nghiêm theo lời Đức Phật dạy. Hình ảnh bậc tu sĩ có đạo hạnh chính là bài pháp sống cho hàng tại gia noi theo và thực hành theo những giới đã lãnh thọ, vì đây chính là đời sống phạm hạnhHạnh phúc của người xuất gia là loại hạnh phúc chân thậtthanh tịnh không còn những ô nhiễm của thế giangiác ngộ và giải thoát. Muốn được như vậy, hành giả phải tu Giới, Định, Tuệ vì đó là con đường đưa đến vô sinh, làm lợi ích cho mình và người.

Người tại gia thọ tam quy và tiếp theo là năm giới vì đây chính là giềng mối đưa đến hạnh phúc gia đìnhtrật tự và hòa bình cho cộng đồng xã hội [19]. Họ sẽ không hề phân vân, hổ thẹn và sợ hãi khi gặp gỡ bà con, bạn bè hay đi vào những chốn đông người. Quan trọng hơn khi lâm chung sẽ ra đi trong tỉnh giác, không mê loạn, không hối hận ăn năn những việc ác đã tạo ra trong đời nên dễ tái sinh vào cõi lành. Người tại gia khi đã thọ trì giới điều này phải cố gắng hành trì: “Kết quả của năm giới là công năng của một cuộc sống đúng giới luật của hàng cư sĩđệ tử tại gia của Đức Phật” [20]. Công đức của việc trì giới rất lớn, nâng cao phẩm giá con người và tiến đến con đường cao thượng.

ỨNG DỤNG ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO QUA NGŨ GIỚI

Xây dựng đời sống đạo đức cho con người và xã hội

Đạo đức học Phật giáo có khả năng đóng góp, tạo dựng đời sống tốt đẹp cho xã hội và đáp ứng nguyện vọng con ngườiXây dựng một xã hội nhân bảncon người được tôn trọngbình đẳng và hưởng những quyền lợi căn bản. Giữ năm giới sẽ tạo nên một xã hội văn minh, biết coi trọng, phát huy mọi giá trị văn hóa của dân tộc và thế giớibảo vệ môi trường sống. Các tệ nạn như: giết người, trộm cắp, tham những, buôn lậu… được giảm bớt và đoạn trừ.

Nhờ thực hành giữ năm điều răn dạy của Đức Phậtchúng ta sẽ không còn lo lắng và bất an về việc bảo toàn sinh mệnh, về chiến tranh hay lo sợ mất tài sảngia đình ấm êm bởi không còn những việc đi ngược đạo đức. Nguồn gốc sâu xa của những tệ nạn xã hội xảy ra khắp nơi là do chính con người đã đánh mất đi tam quý, không còn hổ thẹn với những hành vi sai trái của chính mình [21]. Học giả người Đức Max Miller đã viết: “Đức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hènLuân lýđạo đức căn bản của Đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến” [22].

Dù là Phật tử hay không phải Phật tửchúng ta vẫn có thể thực hành theo năm giới hay cũng chính là năm tiêu chuẩn luân lý đạo đức để có được cuộc sống tốt đẹp hơn, nuôi dạy con cái tốt hơn. Nắm giữ ngũ giới chính là nắm chìa khóa mở toang cánh cửa hạnh phúc, đưa chính mình hướng đến chân thiện mỹ và sống một cuộc đời tràn đầy ý nghĩa.

Giá trị thiết thực của năm giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay

Trong thời buổi hiện đại hóa, mức sống con người ngày càng được nâng cao nên những điều mới lạ, không tốt cho đạo đức giới trẻ cũng xuất hiện rất nhiều. Từ phim, ảnh đồi trụy đến những cách thức tàn sát sinh vật độc ác, tuyên truyền những hành vi đi ngược lại thuần phong, mỹ tục, thậm chí phản tiến bộ, đều tiềm ẩn những nguy cơ cho người trẻ. Khi giữ ngũ giớichúng ta sẽ không giết hại vì tôn trọng mạng sống muôn loài, ý thức được khổ đau do giết hại gây ra. Do vậy, người giữ năm giới sẽ luôn sống an ổn, khỏe mạnh và không bị ai thù oán hay giết hại. Cũng từ đó, môi sinh được giữ gìnxã hội và quốc giathế giới được an lành. Vì theo góc độ nhà Phật, không có loài nào chẳng tham luyến sự sinh tồn bởi niềm vui tương đối của chúng đều lấy sự sinh tồn làm điều kiện tiên quyết [23]. Khi chúng ta khởi tâm giết hại, bất chợt trong đầu nhớ nghĩ đến việc phạm tội luật pháp của Nhà nước, chỉ vì chút nông nổi mà sẽ phải chịu cảnh tù đày, thậm chí không còn cơ hội làm người thì sẽ không dám sai phạm nữa.

Của cải vật chất là ngoại mạng của con người, khi đương sự bị trộm cướp sẽ cảm thấy điêu đứngkhổ não và thậm chí có những suy nghĩ tiêu cực mang đến những hệ lụy đáng tiếc xảy ra. Khi giữ được tâm không tham, không lấy vật của người thì chúng ta sẽ được bình an, tạo niềm tin cho chính mình, cho gia đình và xã hội khiến nhân cách ngày một thăng hoa, luôn được sự tín nhiệm của mọi người và có công ăn việc làm ổn định. Không có tâm tham thì của người không sanh tâm, của mình không bị lấy, không còn lo âu và sợ hãi, tránh được sự nghi ngờ của người khác.

Khi tuân thủ giới tà dâmgia đình sẽ hạnh phúc, không có những chuyện cãi vã, ghen tuông hay oán ghét thù hận. Vì khi không chung thủy, đời sống hôn nhân lục đục, những cuộc cãi nhau hay ly dị làm ảnh hưởng đến con cái. Tình trạng đổ vỡ hạnh phúc lại phát sinh việc tìm kiếm những mối quan hệ mập mờ, không an toàn. Khi giữ được giới này, cuộc sống sẽ ngày càng ổn định, vợ chồng hòa hợpyêu thương và nuôi dạy con cái chu toàn, làm tấm gương tốt cho thế hệ sau duy trì truyền thống đạo đức tốt đẹp đó. Đây cũng chính là bảo vệ danh dự, phẩm cách trên tinh thần thuần phong mỹ tục của đạo đức dân tộc. Qua đó không bị lãng phí tuổi đời vào những cuộc vui đam mê nguy hại, đánh mất tương lai và hạnh phúc gia đình.

Nói lời không thật là nguyên nhân của mọi rối rắm, bất an trong cuộc sống. Bởi chúng chia rẽ, làm đau khổ cho người và tự hạ thấp giá trị của chính bản thân. Nhất là thời buổi công nghệ thông tin, nếu chúng ta đưa những thông tin sai sự thật, gây hoang mang quần chúng cũng là điều phi đạo đức. Đạo đức Phật giáo hay cũng chính là ngũ giới về việc phải nói lời chân thật là lời nói chân thànhnhã nhặn, đem niềm tin đến cho mọi người khiến con người đến gần nhau hơn. Có niềm tin, có hy vọng và có chân thật thì sẽ được tín dụng, thành công trong mọi lĩnh vực. Nhất là trong việc làm ăn kinh doanh, tinh thần hợp tác đầu tư chân thật sẽ mang đến những đối tác chân thậtsự nghiệp vững bền, phát đạt.

Trí tuệ là điểm quan trọng, nếu người không trí tuệ thì mọi sự ngưng trệ và đi sai lệch, còn với người có trí tuệ thì mọi sự hanh thông và đưa đến những thành công rạng rỡ, như trong ngạn ngữ Nga có câu: “Người thông minh thì không làm việc gì mà không suy nghĩ” hoặc Benjamin Franklin từng nói: “Cánh cửa của trí tuệ không bao giờ đóng lại”. Kinh Pháp Cú số 279 cũng có dạy các pháp đều vô ngã, khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ nhàm lìa thống khổ, đó là đạo thanh tịnh [24].

KẾT LUẬN

Tóm lại, trong cuộc sống tương thuộc này, nếu chúng ta biết sống vì mọi người, giữ vững đạo đức hay thọ trì ngũ giới một cách nghiêm túc và xem đó là hàng rào vững chắc không để vi phạm thì xã hội luôn tốt đẹpthế giới hòa bình. Đây chính là cuộc sống đạo đức cao quý, đem tình thương yêu đi vào cuộc đời và sống trọn vẹn trong từng phút giây. Chúng ta hãy tận dụng thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa để nâng cao sự hiểu biếttiết kiệm thời gian và nâng cao đời sống, đừng vì những thú vui và lối sống lai căng mà đánh mất đi những giá trị đạo đức tốt đẹp vốn có. Ở bối cảnh hiện đạiđời sống vật chất tiến bộ hơn ngày xưa rất nhiều, Ngũ giới trong Phật giáo được xem là linh dược tinh thần giúp thiết lập một nếp sống quân bình và an vui cho con người trước những giông tố thời đại. Giữ được năm điều răn dạy ấy, mỗi chúng ta sẽ luôn hạnh phúcgia đình ấm êm, xã hội thái bình và đất nước văn minh.

Toàn bộ giáo lý Phật giáo hầu như đều liên hệ đến đạo đức (hạnh phúc): “Chư Tỳ kheo, xưa và nay ta chỉ nói lên sự khổ và con đường diệt khổ… Đức Phật ra đời là vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người” [25]. Người thế tục nhờ tu dưỡng đạo đức mà hoàn thiện, Ngài tu tập đạo đức mà trở thành bậc đại giác ngộ, đem những lời dạy thiết thực vào đời cứu giúp chúng sanh được an vui và tìm lại bản tâm sau bao ngày lầm đường lạc lốiĐạo đức học Phật giáo qua Ngũ giới là thước đo tiêu chuẩn về đức hạnh con người, sự tiến bộ tâm linh của hành giả tu tập giải thoát. Đó là tiếng chuông thức tỉnh con người trở về tìm lại bản tâm thanh tịnh vốn có của chính mình, xây dựng nền đạo đức chung cho toàn nhân loại.

“Hương các loài hoa thơm 

Không thể bay ngược gió

 Hương của người đức hạnh

Ngược gió khắp tung bay”.

 

Chú thích:

* SC. Thích Nữ Huệ NhậtThạc sĩ Phật học (Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh).

[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_đức_học.

[2] Việt Tân và nhóm cộng tác (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.200.

[3] Theo The Department of Buddhist Affairs (2000), Ministry of Buddhasasana, Encyclopedia of Buddhism, Vol. V, Tharanjee Prints, New Delhi, India, p. 144.

[4] Will Durant, Bửu Đính dịch (2014), Câu chuyện triết học, Công ty sách Thời Đại và Nxb. Hồng Đức, tr.14.

[5] Xem Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[6] Thích Minh Châu dịch (2013), Trường Bộ Kinh, Tập I, Kinh Chủng Đức, Nxb. Tôn giáo, tr.120.

[7] Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo & hạnh phúc con người, Nxb. Tôn giáo, tr.8.

[8] Nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.19.

[9] Thích Phước Sơn (2010), Một số vấn đề Giới luật, Nxb. Phương Đông, tr.11.

[10] Thích Hành Trụ dịch (1964), Sa Di Luận Giải Thượng-Hạ, Nhà in Sen Vàng, tr.6.

[11] Theo S. Tachibana (2013), The Ethics of Buddhism, Cosmo Publications, New Delhi, India, P. 65.

[12] Thích Thanh Từ (dịch, 2005), Kinh Tăng Nhất A-Hàm, Tập I, Phẩm Ngũ Giới, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.184.

[13] Thích Minh Châu (1998), Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.57.

[14] Thích Phước Sơn (2010), Một số vấn đề Giới luật, Nxb. Phương Đông, tr.26.

[15] Thích Viên Trí (2019), Ý nghĩa giới luật, Nxb. Hồng Đức, tr.108.

[16] Khantipàlo, Thích Chơn Thiện dịch, Tìm hiểu đạo Phật (Buddhism explained), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.148.

[17] Thích Trí Quang (2010), Tổng tập Giới pháp xuất gia (tập 1 & 2), Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr.27-28.

[18] Thích Thiện Siêu (2002), Cương yếu Giới luật, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.227.

[19] Thích Thiện Hoa (2013), Bổn phận người Phật tử tại gia, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.73.

[20] Thích Viên Trí (2019), Ý nghĩa giới luật, Nxb. Hồng Đức, tr.116.

[21] Thích Hạnh Bình (2008), Y pháp bất y nhân, Nxb. Phương Đông, tr.202.

[22] https://phatgiaothanhhoa.com/cac-nha-khoa-hoc-noi-gi-ve-duc-phat.html (truy cập 17/11/2020).

[23] Đại sư Ấn Thuận, Mạt Nhân Đạo Quang dịch (2009), Quan niệm của Phật giáo đối với các vấn đề xã hội quan tâm, Nxb. Phương Đông, tr.157.

[24] Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương (2017), Giáo trình Trung cấp Phật học – Kinh Pháp Cú, Nxb. Phương Đông, tr.266.

[25] Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo & Hạnh phúc con người, Nxb. Tôn giáo, tr.7-8.
(Trích từ Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 400)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8093)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20501)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19503)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18382)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16224)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15925)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19023)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14282)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9610)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8697)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8195)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8903)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10951)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9115)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8876)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7941)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9079)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35586)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8551)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15059)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8687)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15262)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9160)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8835)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9347)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8445)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10292)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7655)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9523)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7510)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14999)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9493)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20882)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9208)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7171)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17681)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17618)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25782)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7807)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9895)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7265)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9646)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8122)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9080)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7409)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8746)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7923)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8319)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7516)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8693)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8141)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8877)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7287)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 13985)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7092)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10323)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7660)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8471)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10089)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant