Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Quan Về Duyên Khởi

26 Tháng Tám 202418:53(Xem: 765)
Tổng Quan Về Duyên Khởi

Tổng Quan Về Duyên Khởi
Saṃsāra Vòng Xoáy Luân Hồi -
Một Ẩn Dụ Thâm Sâu Vi Diệu Để Hiểu Thấu Đáo Về Duyên Khởi

Tuệ Huy – Tô Đăng Khoa

 Bồ Tát Đạo

 



Dẩn Nhập

Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình được duy trì sự tồn tại của chính nó bởi các lực tương duyên và đối nghịch.  Samsara nghĩa đenlà vòng nước xoáy được sử dụng để nói đến tiến trình sanh tử luân hồi vô lượng kiếp của một chúng sanh.  Tiến trình này có thể được ví nhưhiện tượng tự nhiên của một vòng xoáy trong một vùng nước rộng lớn.

Ẩn dụ vi diệu này minh họa cách mà các động lực khác nhau duy trì sự tồn tại của samsara. Bằng cách hiểu rõ những động lực này, người hành giả có thể nhận ra các điểm quan trọng để ứng dụng trong việc tu tập của chính mình một cách hiệu quả hơn, rõ ràng thấu đáo hơn, cuối cùng dẫn đến sự giải thoát (Nibanna).

Bài tiểu luận này sẽ khảo sát ẩn dụ thâm sâu vi diệu này của Đức Phật để rút ra những nhận thức cô đọng và quan trọng cho hành giả khi ứng dụng vào việc tu học cho chính mình. Sự hiểu biết thấu đáo này sẽ giứp hành giả nhận ra vì sao giải pháp Sabbasankharasamatho (sự tịnh chỉ tất cả hành) được Thế Tôn trình bày rất chi li và có hệ thống trong kinh Niệm Xứ và Kinh Anapanasati chính là giải pháp tối ưu cho tình trạng bị ném vào samsara của tất cả chúng sanh.

Khảo sát Vòng Xoáy và Các Động Lực Của Nó

Vòng xoáy, với chuyển động cuộn tròn, tượng trưng cho vòng luân hồi liên tục của samsara. Chuyển động này được duy trì bởi các dòng nước đối lậpnuôi dưỡng và làm gia tăng vòng xoáy, tạo ra ảo tưởng về một trung tâm—một điểm tập trung của hoạt độngdần dần phát triển thành khái niệm về tự ngã theo thời gian. Sự tương tác của các lực này và ảo tưởng mà chúng tạo ra có thể được hiểu bằng cách khảo sát về các lực duy trì hai vòng xoáy:  vòng ngoài cùng và vòng trong cùng của toàn bộ vòng xoáy này.

Động Lực phía ngoài cùng của vòng xoáy: Vô Minh và Tham Ái

Vô Minh (Avijja) và Tham Ái (Tanha)  là những lực bên ngoài duy trì vòng xoáy của samsara. Những lực này đại diện cho các thói quen sâu xa được tích lũy qua nhiều kiếp sống, tạo thành các dòng nước mạnh mẽ, giữ cho vòng xoáy luôn vận động.

  - Vô Minh (Avijja):  Đây là lực đẩy về phía trước, khiến con người tạo nghiệp thông qua sự hình thành của các hành (sankharas). Vô minh che mờ chúng sinh khỏi thực tướng của thực tại—vô thường, khổ, và vô ngã—khiến họ hành động theo cách tiếp tục duy trì vòng luân hồi. Nó là lực đẩy thôi thúc con người tạo tác qua thân hành, ý hành, và khẩu hành

  - Tham Ái (Tanha): Tham ái là lực kéo ngược về phía sau, lôi kéo con người trở lại trải nghiệm những khoái lạc phù du của sự tồn tại. Nó đại diện cho sự dính mắc vào các lạc thọ, sự tồn tại, và cả sự không tồn tại, làm củng cố vòng luân hồi bằng cách tạo ra khát vọng tiếp tục tham gia vào samsara.

Những lực này cùng nhau duy trì vòng xoáy, tạo ra một dòng chảy mạnh duy trì và thúc đẩyquá trình samsara liên tục. Theo thời gian, sự tương tác liên tục giữa vô minh và tham ái nuôi dưỡng ảo tưởng về một trung tâm—một tự ngã trường tồn và độc lập—dường như tồn tại ở trung tâm của mọi kinh nghiệm và hành động.

Động Lực Bên Trong Cùng của Vòng Xoáy: Thức và Danh-Sắc

Ở trung tâm của vòng xoáy, các động lực của Thức (Viññana) và Danh-Sắc (Nama-rupa) đại diện cho các hoạt động quay cuồng bên trong. Những quá trình này diễn ra với tốc độ cực kỳ nhanh chóng, hình thành nên sự tương tác nền tảng duy trì trải nghiệm tức thời và luôn thay đổi của sự tồn tại.

- Thức (Viññana): Đây là sự nhận thức phát sinh do các hành và các tiếp xúc giác quan. Nó là dòng chảy liên tục của nhận thức, tương tác với danh-sắc để tạo ra trải nghiệm chủ quancủa sự tồn tại.

- Danh-Sắc (Nama-rupa): Đây là các yếu tố tâm lý và thể chất cung cấp cấu trúc để thức hoạt động. Danh-sắc và thức tương duyên với nhau; thức không thể hoạt động mà không có khung cấu trúc do danh-sắc cung cấp, và danh-sắc không thể tồn tại nếu không có thức.

Sự tương tác nhanh chóng giữa thức và danh-sắc hình thành nên sự quay cuồng bên trong của vòng xoáy, duy trì cảm giác về tự ngã và sự tồn tại trong từng khoảnh khắc. Hoạt độngcốt lõi này duy trì nhận thức tức thời về sự tồn tại, trong khi các động lực bên ngoài của vô minh và tham ái duy trì vòng luân hồi rộng lớn hơn của samsara.

Ảo Tưởng Về Một Trung Tâm: Khái Niệm Sơ Khai Về Tự Ngã

Sự quay cuồng liên tục của vòng xoáy, được điều khiển bởi cả các động lực bên ngoài và bên trong, tạo ra ảo tưởng về một trung tâm—một điểm tập trung của hoạt động dường như là "tự ngã."

Khái niệm sơ khai về một cái gọi là “trung tâm” chính xác là vì nó có nhiều hoạt động trao đổi(thức và danh sắc với môi trường bên ngoài). Ví như ở trung  tâm thành phố thì có nhiều hoạt động trao đổi và mua bán hơn là ở nông thôn. Nói cách khác, một khoảng không gian được gọi là trung tâm chính xác là vì khoảng không gian đó có nhiều hoạt động hơn là những khoảng không gian bên cạnh. Cũng vậy ta gọi trung tâm vòng xoáy vì tại đó có nhiều hoạt động hơn khối nước lân cận.  Theo thời gianảo tưởng này trở nên cố định, dẫn đến niềm tinvào một "tôi" trường tồnđộc lậptồn tại riêng biệt với thế giới. Khái niệm về tự ngã này khởi đi từ khái niệm sơ khai về một “trung tâm” nhưng càng ngày càng trở nên rất sâu sắc và rốt ráo hình thành khái niệm Ngã (cái tôi), củng cố thêm vòng luân hồi của samsara khi chúng sinh hành động để bảo vệ và duy trì ảo tưởng về tự ngã này.

Sabbasankharasamatho: Sự Tịnh Chỉ Tất Cả Hành, Giải Pháp Tối Ưu cho tình trạng bị ném vào Samsara

Sabbasankharasamatho đề cập đến sự tĩnh lặng hoặc sự đình chỉ của tất cả các hành (sankharas). Quá trình này là trọng tâm của con đường giải thoát trong thực hành Phật giáo, vì nó dẫn đến sự tiêu tan các điều kiện duy trì vòng luân hồicuối cùng dẫn tới sự chứng đắcNiết-bàn. Việc làm tĩnh lặng tất cả các hành liên quan đến việc giảm dần và cuối cùng là sự đình chỉ của các hoạt động tâm lý và vật lý khác nhau, như hơi thởsuy nghĩcảm giác, và nhận thức. Quá trình này có thể được tu tập một cách có hệ thống thông qua thực hành Tứ Niệm Xứ (Satipatthana) hoặc Anapanasati (Niệm Hơi Thở).

Quá Trình Làm Tĩnh Lặng Có Hệ Thống Qua Pháp Thiền Tứ Niệm Xứ

Quá trình làm tĩnh lặng sabbasankharasamatho diễn ra theo các giai đoạn, mỗi giai đoạn liên quan đến một lớp hoạt động tâm lý và vật lý sâu hơn. Quá trình làm tĩnh lặng này có thể được tóm tắt như sau:

1. Làm Tĩnh Lặng Hơi Thở (Hơi Thở Ra/Vào)

   - Hơi thở là hành dễ tiếp cận nhất và cơ bản nhất của mọi hành. Thực hành bắt đầu bằng việc tập trung vào hơi thở ra và vào, quan sát nó với chánh niệm. Khi sự tập trung sâu sắc hơn, hơi thở tự nhiên trở nên tinh tế và nhẹ nhàng hơn, dẫn đến một trạng thái tĩnh lặng. Cuối cùnghơi thở có thể trở nên tinh tế đến mức dường như ngừng lại, điều này biểu thị sự tĩnh lặng của hành vật lý cơ bản nhất.

   - Giai đoạn này thường được tu tập thông qua Anapanasati (Niệm Hơi Thở), nơi mà người hành giả bắt đầu bằng việc quan sát hơi thở và dần dần làm sâu sắc sự tập trung cho đến khi hơi thở trở nên tĩnh lặng một cách tự nhiên.

2. Làm Tĩnh Lặng Tầm và Tứ (Vitakka và Vicara)

   - Khi hơi thở tĩnh lặng, các quá trình tư duy của tâm—tầm (vitakka) và tứ (vicara)—cũng bắt đầu tĩnh lặng. Đây là các hoạt động tâm lý hướng tâm trí đến một đối tượng và duy trì sự chú ý vào đối tượng đó. Ở giai đoạn đầu của thiền, những suy nghĩ này có thể khá năng động, nhưng khi sự tập trung sâu sắc hơn, chúng tự nhiên giảm bớt.

   - Trong thực hành Tứ Niệm Xứ (Satipatthana), chánh niệm được áp dụng đối với tâm, quan sát những suy nghĩ này và cho phép chúng lắng đọng. Khi tâm trở nên tập trung hơn, sự cần thiết của tầm và tứ giảm bớt, dẫn đến trạng thái tĩnh lặng nội tại.

3. Làm Tĩnh Lặng Thọ (Vedana)

   - Thọ (Vedana) đề cập đến các cảm giác và cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc với các giác quan. Chúng có thể là lạc thọkhổ thọ, hoặc xả thọ. Khi chánh niệm sâu sắc hơn, người hành giả quan sát các cảm thọ này mà không dính mắc hoặc phản ứng, dẫn đến sự tĩnh lặng dần dần của chúng.

   - Thông qua việc áp dụng chánh niệm có hệ thống đối với cảm thọ (niệm xứ thứ hai trong Satipatthana), người hành giả nhận ra bản chất vô thường và duyên sinh của thọ. Tất cả thọ dụ như bọt nước có sanh ắt có diệt, vậy ta hãy kham nhẫn quan sát sự sanh sanh diệt diệt các thọ mà không tác ý tạo nên thọ mới, hãy quan sát sự sanh diệt đang diễn ra của các thọ cũ.  Sự hiểu biết này giúp nới lỏng sự dính mắc và phản ứngcho phép các cảm thọ tự nhiênlắng đọng. Vì sao? Vì chính sự dính mắc và phản ứng sẽ tạo nên thọ mới và làm gián đoạnnổ lực làm tỉnh lặng các thọ mà hành giã đang nhắm tới thực hiện

4. Làm Tĩnh Lặng Tưởng (Sanna)

   - Tưởng (Sanna) đề cập đến sự nhận biết hoặc nhận thức về các đối tượng, liên quan mật thiết đến ký ức và sự nhận diện. Khi tâm trở nên tinh tế hơn, ngay cả những nhận thức tinh tếphát sinh trong thiền cũng bắt đầu tĩnh lặng. Người hành giả bắt đầu nhìn thấy qua ảo tưởngcủa những nhận thức này, nhận ra bản chất vô thường và được xây dựng của chúng.

   - Niệm xứ thứ tư trong Satipatthana—chánh niệm về các pháp—bao gồm sự quan sáttưởng. Khi chánh niệm và sự tập trung sâu sắc hơn, các nhận thức trở nên ít rõ ràng hơn và cuối cùng biến mất, dẫn đến một trạng thái tĩnh lặng sâu sắc.

Tứ Niệm Xứ và Anapanasati là Phương Pháp có hệ thống để thực hiệnSabbasankharasamatho

Việc làm tĩnh lặng có hệ thống tất cả các hành liên quan mật thiết đến thực hành Tứ Niệm Xứvà Anapanasati:

Tứ Niệm Xứ (Satipatthana):

  - Tứ Niệm Xứ cung cấp một khung sườn toàn diện để làm tĩnh lặng và hiểu biết tất cả các khía cạnh của kinh nghiệm. Các niệm xứ bao gồm:

    1. Niệm Thân (Kayanupassana): Bắt đầu với hơi thở và các tư thế của thân, người hành giả phát triển chánh niệm về hình thức vật lý, dẫn đến sự tĩnh lặng của các hành vật lý.

    2. Niệm Thọ (Vedanupassana): Quan sát các cảm thọ khi chúng phát sinh, người hành giảphát triển sự hiểu biết về bản chất vô thường của chúng, dẫn đến sự tĩnh lặng của chúng.

    3. Niệm Tâm (Cittanupassana): Tập trung vào trạng thái tâm trí, người hành giả nhận thứcđược các hành tâm lý như suy nghĩ, dẫn đến sự tĩnh lặng của các hoạt động tâm lý này.

    4. Niệm Pháp (Dhammanupassana): Quan sát các pháp, hoặc các hiện tượng tâm lý, người hành giả nhận thức được bản chất của các nhận thức và các hành vi tinh tế khác, dẫn đến sự đình chỉ của chúng.

- Niệm Hơi Thở (Anapanasati):

  - Anapanasati đặc biệt nhấn mạnh sự làm tĩnh lặng của hơi thở, điều này tự nhiên kéo dài đến sự làm tĩnh lặng của tâm trí và các hành. Thực hành này được chia thành bốn phần, tương ứng với tứ niệm xứ, và dẫn đến các trạng thái định (samadhi) và tuệ (vipassana) sâu sắc hơn.

  - Việc tập trung có hệ thống vào hơi thở trong Anapanasati cung cấp một con đường rõ ràngđể làm tĩnh lặng các hành vật lý và tâm lý, dẫn đến sự tĩnh lặng cần thiết để chứng đắc Niết-bàn.

Sự Đình Chỉ Của Vòng Xoáy qua Sabbasankharasamatho = Chứng Đắc Niết-Bàn

Khi người hành giả làm tĩnh lặng một cách có hệ thống hơi thởsuy nghĩcảm thọ, và nhận thức thông qua các thực hành này, hoạt động xoáy của vòng xoáy chậm lại và cuối cùngngừng hẳn. Sự đình chỉ của tất cả các hành (sabbasankharasamatho) dẫn đến sự tiêu tancủa ảo tưởng về một sự tồn tại tự ngã. Khái niệm về tự ngã, từng được duy trì bởi những hành này, phai mờ, để lại một trạng thái tĩnh lặng và trong sáng sâu sắc. Ví như khi khối nước không còn các dòng đối lưu, khi khối nước được tịnh chỉ, không thể chỉ ra chổ nào là “trung tâm” của một khối nước hoàn toàn tĩnh lặng, nơi nơi chốn chốn đều hoàn toàn bình đẳng. Cũng vậy khi Sabbasankharasamatho được thực thi, khái niệm ngã tiêu tan vì không thể chỉ ra.

Trạng thái này, tương tự như một vùng nước yên tĩnh giữa đại dươngảo tưởng về một trung tâm hay tự ngã không còn tồn tại. Sự đình chỉ của vòng xoáy biểu thị sự chứng đắc Niết-bàn, nơi mà mọi hoạt động duyên khởi đều chấm dứt, và tâm trí được giải thoát khỏi những lực lượng ràng buộc của samsara. Sự tĩnh lặng tối thượng này là đích đến cuối cùng của con đường Phật giáo, nơi mà người hành giả đạt được sự giải thoát và chấm dứt khổ đau.

Kết Luận

Vòng xoáy luân hồi của samsara, được duy trì bởi các lực đối nghịch của vô minh và tham áiở mức độ bên ngoài, và bởi thức và danh-sắc ở mức độ bên trong, tạo ra ảo tưởng về một tự ngã tồn tại ở trung tâm của mọi kinh nghiệm. Bằng cách hiểu và can thiệp vào các động lựcnày thông qua thực hành có hệ thống sabbasankharasamatho, người hành giả có thể phá vỡ vòng luân hồicuối cùng làm tiêu tan ảo tưởng về tự ngã và đạt được sự giải thoátCon đường đến sự giải thoát này là qua sự đình chỉ của tất cả các hành, dẫn đến sự tĩnh lặng và an lạc của Niết-bàn, nơi mà khái niệm về tự ngã không còn giữ bất kỳ quyền lực nào.

Kính chúc quý hành giả tinh tấn dõng mãnh trong hành trình đi về Sabbasankharasamatho:  Sự tĩnh lặng tối thượng, đích đến cuối cùng của con đường Phật giáođạt được giải thoát và chấm dứt khổ đau.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính dâng và hồi hướng sức khỏe và trí tuệ tâm linh cho Ba Má nhân mùa Vulan 2024.

Tuệ Huy- Tô Đăng Khoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4972)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 6267)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 4635)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 5433)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 4208)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 4711)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 5154)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 6187)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 4584)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 4663)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 4704)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 5647)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 5123)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4969)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 4623)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 5790)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4987)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 7239)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 5347)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 5645)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4975)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 5753)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 6492)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 4443)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4751)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 5354)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 6156)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3840)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 5436)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 5484)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4962)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 5430)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 5386)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 5228)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 8349)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5906)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5754)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 5293)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 6366)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 6105)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4850)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6846)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 5516)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 5551)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 6289)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 6514)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 6596)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5733)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 5100)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 5439)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 5360)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 6673)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3810)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 6186)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3427)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4892)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5920)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4930)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3864)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 7311)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM