Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

13 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11399)
Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

 

Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ, linh diệu. Vì như thế, việc các kinh điển thuộc hệ Nam truyền, nhất là hệ Bắc truyền viết về lịch sử Ðức Phật đã nói nhiều đến khía cạnh linh diệu, cũng là chuyện bình thường, hợp lẽ. Nhân mùa Phật Ðản, chúng tôi xin bàn qua chi tiết linh diệu trong ngày Ðản sinh của Ðức Bổn Sư, theo các kinh thuộc Hán tạng. Ðó là chi tiết: Thái tử vừa mới sinh ra, đã tự bước đi 7 bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, với câu nói mà nhiều người đã biết.

1. Kinh No184: Kinh Tu Hành Bản Khởi

Do 2 Ðại sư Trúc Ðại Lực và Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu Hán (25-220), gồm 2 quyển.

Về chi tiết linh diệu kể trên, kinh viết: "Hành thất bộ, cử thủ tục nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, ngô đương an chi" (Kinh Tu Hành Bản Khởi, No184, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 463C). [...Thái tử đi bảy bước, giơ tay, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ đem lại sự an lạc].

2. Kinh No185: Kinh Thái Tử Thụỵ Ứng Bản Khởi

Do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ðông Ngô (222-280) gồm 2 quyển. Nơi quyển 1, đoạn thuật lại ngày Ðản sinh của Phật về chi tiết linh diệu đã nêu cũng giống với kinh No 184:

"Tức hành thất bộ, cử hữu thủ trụ nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ hà khả lạc giả"... (Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, No 185, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 473C). [...Thái tử liền đi bảy bước, giơ tay phải lên, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?)].

3. Kinh No186: Kinh Phổ Diệu

Do Pháp sư Trúc Pháp Hộ (226-304) dịch vào đời Tây Tấn (265-317), gồm 8 quyển. Ðây là bản Hán dịch được thực hiện trước, từ cùng một bản tiếng Phạn. Bản Hán dịch sau tức kinh No 187.

So với 2 kinh 184, 185, kinh Phổ Diệu viết về sự kiện linh diệu nêu trên gồm nhiều chi tiết hơn:

"Nhĩ thời Bồ tát tùng hữu hiếp sinh, hốt nhiên kiến thân trụ bảo liên hoa, trụy địa hành thất bộ, hiển dương Phạm âm, vô thường huấn giáo: "Ngã đương cứu độ, thiên thượng thiên hạ vi thiên nhân tôn, "đoạn sinh tử khổ, tam giới vô thượng, sử nhất thiết chúng sanh vô vi thường an" (Kinh Phổ Diệu, No186, quyển 2, ÐTK/ÐCTT, T3, tr 494A). [Lúc này, Bồ tát từ nơi hông bên phải sinh ra, hốt nhiên thấy thân trụ ở đóa sen báu. Bước xuống đất, Bồ tát liền đi bảy bước, tiếng nói là Phạm âm vang rõ, chỉ dạy về vô thường: Ta sẽ cứu độ muôn loài, trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, diệt trừ mọi thứ khổ của sinh tử, 3 cõi không gì hơn khiến cho hết thảy chúng sinh luôn được an lạc nơi cảnh giới giải thoát].

4. Kinh No187: Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm

Hán dịch là Ðại Sư Ðịa Bà Ha La, dịch vào đời Ðường (618-907) gồm 12 quyển, chi tiết linh diệu kể trên thuộc quyển thứ 3, không chỉ "đi 7 bước" ở 1 phương mà cả 6 phương, mỗi phương đều có những bày tỏ không giống nhau.

* Phương Ðông: "Sở hạ túc xứ giai sinh liên hoa. Ngã đắc nhất thiết thiện pháp, đương vị chúng sanh thuyết chi" (Nơi mỗi dấu chân đi qua đều sinh hoa sen. Ta đã đạt được hết thảy các pháp thiện, sẽ vì chúng sanhthuyết giảng).

* Phương Nam: "Nơi hàng Trời, Người, Ta là bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường".

* Phương Tây: "Ðối với thế gian, Ta là bậc tối tôn tối thắng, đây tức là sự thọ thân sau cùng của Ta, dứt sạch mọi sinh lão bệnh tử".

* Phương Bắc: "Ta sẽ ở trong muôn loài là bậc Vô thượng, tột cùng".

* Phương Hạ: "Ta sẽ hàng phục hết thảy quân ma..."

* Phương Thượng: "Ta sẽ được tất cả chúng sinh dốc lòng chiêm ngưỡng".

(Kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm, No187, quyển 3, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 553A-B.

5. Kinh No188: Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi

Do cư sĩ Nhiếp Ðạo Chân dịch vào đời Tây Tấn, 1 quyển, đã ghi nhận về chi tiết linh diệu kia như sau:

"Tùng mẫu hữu hiếp sinh, trụy địa, hành thất bộ chi trung, cử túc cao tứ thốn, túc bất đạp địa, tức phục cử hữu thủ ngôn: Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả". (... Từ nơi hông bên phải của mẹ sinh ra, chạm đất, trong khi đi bảy bước, chân cất cao đến 4 tấc, không đạp đất, lại giơ cao tay phải nói: Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai hơn Ta). (ÐTK/ÐCTT, T3, tr 618A).

6. Kinh No189: Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả

Hán dịch là Ðại Sư Cầu Sa Bạt Ðà La, dịch vào đời Lưu Tống (420-478) gồm 4 quyển, sự kiện linh diệu trên thuộc về quyển 1. Kinh viết: "Bồ tát tiệm tiệm tùng hữu hiếp xuất... Vô phù thị giả "tự hành thất bộ, cử kỳ hữu thủ, nhi sư tử hống: Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sinh tử ư kim tận hỉ" (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 625A).

[Bồ tát dần dần từ nơi hông bên phải sinh ra... không người để vịn, đỡ, tự đi bảy bước, giơ cao tay phải, lời nói như tiếng sư tử gầm: Ta, đối với tất cả hàng Trời, Người, là bậc tối tôn tối thắng. Vô lượng nẻo sinh tử từ nay sẽ dứt sạch].

7. Kinh No190: Kinh Phật Bản Hạnh Tập

Do Ðại sư Xà Na Quật Ða dịch vào đời Tùy (589-618) gồm đến 60 quyển, là bộ kinh bề thế nhất của bộ Bản duyên thuộc Phật giáo Bắc truyền. Về sự kiện linh diệu kia, kinh viết:

"Bồ tát sinh dĩ, vô nhân phù trì, tức hành tứ phương diện các thất bộ, bộ bộ cử túc xuất đại liên hoa. Hành thất bộ dĩ, quan thị tứ phương, tiên quan đông phương, mục vị tằng thuấn, khẩu tự xuất ngôn: Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật sanh phần dĩ tận... dư phương tất nhiên".

(Kinh Phật Bản Hạnh Tập, No190, quyển thứ 8, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 687B).

[Bồ tát sinh rồi, không người để vịn đỡ, liền đi về 4 phương, mỗi phương đều đi 7 bước, nơi mỗi bước khi cất chân lên đều có hoa sen lớn xuất hiện. Ði 7 bước xong, bèn nhìn khắp 4 phương, trước là nhìn về phương Ðông, mắt không hề chớp, miệng phát ra lời: Trong thế gian, Ta là bậc tối thắng. Từ nay, nẻo sinh tử của Ta đã dứt... các phương khác cũng thế].

8. Kinh No191: Kinh Chúng Hứa Ma Ha Ðế

Do Ðại sư Pháp Hiền dịch vào đời Triệu Tống (960-1279), gồm 13 quyển, chi tiết linh diệu nêu trên thuộc quyển thứ 3. Ðiều đáng chú ý ở đây là, cùng với 7 bước đi về 4 phương, kinh không ghi nhận các câu nói như những kinh kia mà chỉ giải thích ý nghĩa biểu trưng nơi 4 phương:

"Nhĩ thời Thái tử thân tướng viên mãn... ư kỳ tứ phương các hành thất bộ. Ðông phương biểu Niết bàn tối thượng. Nam phương biểu lợi lạc quần sanh. Tây phương biểu giải thoát sinh tử. Bắc phương biểu vĩnh đoạn luân hồi". (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 939B).

[Bấy giờ, thân tướng của Thái tử đã viên mãn... Ở nơi 4 phương đều đi 7 bước. Phương Ðông là biểu thị cho Niết bàn tối thượng. Phương Nam là biểu thị cho việc đem lại lợi lạc nơi muôn loài. Phương Tây là biểu thị cho sự giải thoát khỏi sinh tử. Phương Bắc là biểu thị cho sự đoạn trừ vĩnh viễn nẻo luân hồi].

9. No192: Phật sở hành tán

tác phẩm "trường ca" đầu tiên của Phật giáo Bắc truyền viết về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tác giả là Ðại sĩ Mã Minh (100-160TL), một luận sư đã có những đóng góp lớn vào quá trình hình thành hệ thống Phật giáo Phát triển. Hán dịch "Phật sở hành tán" là Ðại sư Ðàm Vô Sấm, dịch vào đời Bắc Lương (401-439), gồm 5 quyển, 28 phẩm với 9.216 câu thơ 5 chữ.

Về chi tiết linh diệu nêu trên, Phật sở hành tán chỉ nói đến "Bồ tát vừa sinh ra đã đi bảy bước" với câu nói:

"Thử sinh vi Phật sinh

Tắc vi hậu biên sinh

Ngã duy thử nhất sinh

Ðương độ ư nhất thiết".

(ÐTK/ÐCTT, T4, trang 1B)

 

Ðây là Phật thị hiện

Lần sinh ấy cuối cùng

Ta với một đời này

Muôn loài nguyền độ thảy.

10. No193: Kinh Phật Bản Hạnh Nguyện (thi kệ)

Do Sa môn Bảo Vân người Lương Châu, dịch vào đời Lưu Tống, gồm 7 quyển, 31 phẩm, sử dụng các thể thơ 4 chữ, 7 chữ để dịch, trong đó chiếm đa số là câu 5 chữ (7.426 câu)... Sự kiện linh diệu kể trên đã được mô tả:

Hiện 7 Giác ý

Dứt sạch phiền não

Nên đi 7 bước...

Như mặt trời sáng

Chiếu thắp bốn phương

Hiện pháp Tứ đế

Như Sư tử gầm:

Ta với đời này

Thọ thân sau rốt

Không còn trở lại

Theo nẻo thai sinh

Ta sẽ thành Phật

Ðạo rất khó đạt

Dẫn dắt muôn loài...

Chúng tôi xin nêu ra mấy ghi nhận bước đầu như sau:

1. Qua 10 trích dẫn trên, khỏi phải giảng giải thêm, chúng ta cũng đã lãnh hội được ý nghĩa chính của toàn bộ vấn đề: đó là sự xuất hiện của một bậc vĩ nhân và với giáo pháp giác ngộ, giải thoát mà bậc vĩ nhân ấy chứng đắc sau này, đối chiếu trong 3 cõi, chính là giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng.

2. Câu nói của Thái tử (Bồ tát) mang tính chất thâu tóm là: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn". "Duy ngã vi tôn" ở đây nên được hiểu là: Như Laigiáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không ai có thể vượt hơn, không gì có thể so sánh. Vì chỉ có giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng ấy mới giúp con người đạt đến giác ngộgiải thoát.

3. "Duy ngã vi tôn" ở đây không hề có đại ngã, tiểu ngã gì cả, mà cũng không hề mâu thuẫn gì với giáo lý vô ngã, một trong những giáo lý tiêu biểu nhất mà Ðức Phật đã chứng đắc. Ðây chỉ là sự khẳng định, nói rõ hơn là sự khẳng định của người biên chép kinh, mang ý nghĩa "báo trước" về tính chất xuất chúng của Ðức Phật vừa ra đời cùng giáo pháp mà Phật sẽ chứng đắc về sau. Phật Quang đại từ điển đã giải thích khá rõ:

"Duy ngã độc tôn (**): Nghĩa là trong thế giới chỉ có Ta là tôn quý hơn hết. Căn cứ theo kinh Trường A Hàm, quyển 1, được ghi chép nơi kinh Ðại Bản (kinh Trường A Hàm gồm 22 quyển với 30 kinh, kinh Ðại Bản là 1 trong số 30 kinh ấy - ÐN chú) thì Ðức Thế Tôn do mẹ là phu nhân Ma Da sinh ra từ nơi hông bên phải, khi vừa chạm đất, đã tự mình đi 7 bước, nhìn khắp bốn phương, giơ cao tay lên, nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn" (ÐTK/ÐCTT, T1, trang 4C), dựa nơi sách "Thích Môn quy kinh nghi" quyển thượng, đã giải thích, thì nhân xã hội Ấn Ðộ đương thời, dân tình, phong tục tỏ ra trọng thị 96 học phái ngoại đạo, tất cả các phái này đều tự cho là bậc đại thánh nhân, là hàng thầy của Trời, Người; Ðức Thế Tôn vì nhằm diệt trừ nẻo tà, dẫn về nẻo chánh, nên đã thị hiện tướng ấy, biểu thị là trong 3 cõi chỉ có Phật là tôn quý hơn hết, có thể cứu độ khắp trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, đoạn trừ sự khổ của sinh tử, khiến cho tất cả chúng sanh đạt được an lạc lớn"... (Phật Quang đại từ điển, Phật Quang xuất bản xã ấn hành, 1999, trang 4423/1).

Tháng 4-2002

GHI CHÚ:

(*) Xem nguyệt san Giác Ngộ số 60, 61 (tháng 3, 4-2001)

In lại trong Phật học cơ bản, T4.

(**) Các kinh thuộc Phật giáo Bắc truyền đã dẫn, kể cả kinh Trường A Hàm, quyển 1 đều chép là "duy ngã vi tôn". "Ðộc tôn" chắc là do sự thêm bớt của người đời sau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20445)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22355)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18779)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27042)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18750)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19971)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20164)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28345)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46372)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15460)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65701)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13754)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18662)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15560)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14586)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18747)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12650)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17670)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25505)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38747)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17720)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11254)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18625)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17428)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13229)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13321)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17556)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24322)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12390)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13813)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13004)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12898)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14181)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14636)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21115)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29990)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13878)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18260)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17074)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12640)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30749)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14656)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13009)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12751)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12523)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13065)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16319)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15225)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23857)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16196)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29017)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20302)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15586)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37263)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45050)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36934)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant