Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thông điệp sự ra đời của Phật

16 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10475)
Thông điệp sự ra đời của Phật

THÔNG ĐIỆP SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT

Thích Thông Huệ

blankVào ngày trăng tròn cách đây trên 25 thế kỷ, có một bậc vĩ nhân xuất hiện ở đời. Đó là Thái Tử Sĩ Đạt Ta, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

Ngài sinh vào cung vua Tịnh Phạn, năm 563 trước Tây Lịch. Cuộc đời Ngài từ lúc sinh cho tới lúc nhập diệt là một cuộc đời hết sức đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Ngài đã đi vào quá khứ, nhưng đức tính và trí tuệ của Ngài vẫn còn mãi với con ngườicuộc đời. Hôm nay là ngày Phật đản chúng ta cần ôn lại một đôi điều trong các kinh điển Phật giáo để hiểu được ý nghĩa sự ra đời của Đức Từ Phụ, nguyện noi gương Ngài luôn tinh tấn trên bước đường tự lợi tự tha. Theo truyền thuyết khi sinh ra đi được bảy bước, mỗi bước có hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, Ngài đọc bài kệ như sau:

Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử

Tạm dịch :

Trên trời và dưới trời
Chỉ có Ta trên hết
Tất cả trong thế gian
Đều sinh lão bệnh tử

Những hình ảnh trên đây mang nhiều ý nghĩa rất thâm sâu. Vì sao Thái Tử Sĩ Đạt Ta đi bảy bước mà không nhiều hoặc ít hơn? Con số bảy nói lên điều gì? Về mặt thời gian, người ta thường cho là có ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Về không gian thì có bốn phương chính Đông, Tây, Nam, Bắc. Những quan niệm về thời giankhông gian, thật ra chỉ là con đẻ của vọng tưởng, không phải lẽ thật. Cho nên hình ảnh Thái tử đi bảy bước tượng trưng Ngài đã siêu vượt được thời giankhông gian, không còn bị ràng buộc trong những qui ước tương đối của con người.

Về hoa sen, tất cả Phật tử đều biết một đặc điểm rất tuyệt vời của nó, là mọc từ bùn nhơ mà vươn lên rồi tỏa hương thơm ngát. Hoa sen ở trong bùn mà không bị lấm bùn, không bị bùn nhơ làm ô nhiễm.

"Giữa đống rác nhơ bẩn
Nơi ấy hoa sen nở
Làm đẹp ý mọi người…"

Thái tử cũng thế, sinh vào chốn trần lao để làm lợi ích cho chúng sanh nhưng không bị vướng mắc, nhiễm nhơ bởi bùn lầy ngũ dục . Bài kệ bốn câu Ngài đọc đã làm một số người hiểu lầm. Đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao vị giaó chủ lại đề cao cái "ta" của mình quá đáng như thế? Nếu đọc kỹ hai câu sau, chúng ta mới thấy cái ý nghĩa uyên áo trong đó. Tất cả chúng sinh không ai thoát được bốn điều khổ não là sinh, già, bệnh, chết, dù ở cõi chư Thiên (trên trời) hay cõi người (dưới trời). Chỉ riêng "ta" là trên hết, vì "ta" đã thoát được sự ràng buộc này. Thử hỏi tất cả những hình tướng của thế gian, cái gì không chịu sự chi phối của lý vô thường? Có sanh thì có diệt, có hình tướng thì phải có huỷ hoại, dù là thân hình có 38 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thái Tử. Vì thế cái "ta" ở đây dứt khoát không phải là cái ngã hữu hình hữu hoại của Ngài, mà chính là cái "Chơn ngã". Đó là chơn tâm, Phật tánh, là bản tâm thanh tịnh, là Phật tri kiến, là tâm viên giác, là bản lai diện mục… Nó còn vô số tên vì bản chất nó không có tên. Nó không có hình tướng nên không thể bị hủy diệt. Nó trùm khắp vạn hữu nên siêu việt cả không gianthời gian. Tất cả mọi hàm linh đều có cái ngã này, không ai hơn không ai kém, Phật đã nhận ra và sống viên mãn với nó nên Ngài thành Phật, còn chúng ta vì quên nó nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

Hiểu được những điều này, chúng ta thấy mình được đôi phần an ủi. Nếu chúng ta ngồi trong tư thế thiền toạ, tâm an định không bị vọng tưởng lôi dẫn thì rõ ràng ngay lúc ấy chúng ta cũng ngồi trên toà sen. Nếu chúng ta đi từng bước thiền hành, tâm an trú trong giờ phút hiện tại mà không duyên theo các pháp, thì mỗi bước đi của chúng ta cũng có hoa sen nâng chân. Và nếu chúng ta luôn luôn tinh tấn, gội rửa dần từng lớp bụi ngũ dục, ở trong cuộc đời mà không bị nhiễm ô theo trần cảnh, thì một lúc nào đó, ánh trực giác đột nhiên bừng lên, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp sẽ bị xua tan không còn dấu tích.

Trong kinh A Hàm có câu:

"Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi íchhạnh phúc cho chư Thiên và loài Người". Vì sao Đức Phật gọi là "một chúng sinh"? Ở đây ta phải hiểu chữ "chúng sinh" theo nghĩa, các hình tướng do nhiều pháp hợp lại mà thành. Như vậy, thân tướng của Đức Phật, dù vẻ đẹp và tướng tốt, cũng là do tứ đại giả hợp mà thành, cũng bất tịnhvô thường như mọi người. Do đó Ngài cũng là con người, là chúng sinh; nhưng khác với chúng ta ở chỗ, Ngài là một con người phi thường, một chúng sinh duy nhất. Bởi vì Ngài là một chúng sinh duy nhất không còn tham sân si, không còn lậu hoặc phiền não. Bởi vì Ngài là một con người tuy sinh ra nơi chốn trần lao, nhưng tự tại với tất cả mọi cám dỗ của ngũ dục lục trần. Sự xuất hiện của Đức Phật nhằm mục đích cao cả, là vì lợi íchhạnh phúc của chư Thiênloài Người. Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng chói về sự quên mình, để đem lại an lạc và chỉ bày chân lý tối thượng cho chúng sinh.

Kinh Pháp Cú –193, Phật dạy :"Khó gắp được Như Lai, không phải đâu cũng có. Chỗ nào Phật đản sinh nơi đó tất an lạc". Nếu cho rằng Như LaiĐức Phật có 32 tướng tốt, gọi là Như Lai xuất thế, thì quả thật rất khó gặp. Đức Phật Tích Ca ở Ấn Độ đã nhập diệt trên 2500 năm, đến nay chúng ta vẫn chưa thấy có một vị Phật nào khác ra đời. Nhưng nếu hiểu theo tinh thần kinh Kim Cang, Như Lai tức không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nghĩa là phi sắc phi tướng, vô hình vô vật, thì khi chúng ta toạ thiền, tâm lặng lẽ mà hằng tri, thì ấy Như Lai đã hiện tiền. Một niệm tỉnh giác thì Đức Phật ra đời, vì Phật là Giác. Một niệm điên đảo chạy theo trần cảnh thì Đức Phật nhập diệt. Khi Như Lai tự tâm đản sinh, nghĩa là lúc tâm an định sáng suốt, thì rõ ràng nơi ấy tức khắc được an lạc.

Trong kinh Pháp Cú – 182: "Được sinh ra làm người đã là khó. Được sống lại càng khó hơn. Được nghe chánh pháp là khó. Được gặp Đức Phật ra đời là rất khó." Quả thật ,được làm thân người là khó, vì thế giới loài người gồm 4 châu nhân gian, còn các cõi khác như địa ngục, ngạ quỷ,… Nhưng cái khó ở đây là khó phát tâm tu hành, vì thường thì ở những nơi quá sung sướng (như cõi trời) hoặc quá khổ sở (như địa ngục), chúng sinh ít có điều kiện được nhắc nhở để tiến tu. Còn cõi người thì không quá sung sướng mà cũng không quá khổ cực, nhiều khi gặp những thăng trầm trong cuộc sống hay đau khổ mất mát, đó là những cơ hội để con người thấy rõ lý vô thường hay lý nhân quả, từ đó nguyện đi theo con đường Đức Phật dạy.

Trong bốn cái khó ở trên, được gặp Phật ra đời là khó nhất. Trong một thế giới không bao giờ có hai vị Phật xuất hiện đồng thời. Chỉ khi nào giáo pháp của vị Phật trước đã hết lưu truyền, thì vị Phật sau mới ra đời. Hiện nay, dù trong thời mạt pháp, chúng ta không tận mắt thấy được ứng hóa thân của Phật, nhưng chúng ta vẫn còn nghe chánh pháp, vẫn còn chiêm ngưỡng được dung nhan của Ngài qua hình tượng. Cho nên, nếu có ai tự xưng là Phật, giảng pháp cho người người khác, hoặc phao tin sắp có hội Long Hoa, Phật Di Lặc ra đời… thì đó là những lời dối trá, mê hoặc người đời, nhằm phục vụ cho một ý đồ đen tối nào đó. Sự thị hiện của ứng hóa thân Phật trên cõi đời là một sự kiện hiếm gặp, là điều vị tằng hữu (chưa từng có). Nhưng chúng ta có khi nào tự hỏi, Ngài xuất hiện trên đời để làm gì? Trong kinh pháp hoa, Phật dạy: "Chư Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đai sự nhân duyên: Khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến". Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác. Từ đó sẽ nhận ra và hằng sống được với Phật tánh của chính mình một cách viên mãn.

Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập 1, Phật dạy rằng: "Này các Tỳ kheo! Thân của Như Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác thường đã bị chặt đứt. Khi thân của Như Lai còn tồn tại, thì chư Thiênloài Người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiênloài người không thể thấy được". Khi Đức Phật còn tại thế, thân 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Ngài là một điều kiện tốt để dễ gần và dễ giáo hoá những chúng sinh căn cơ thấp kém. Vì chìu uốn theo tánh dục của chúng sinh nên Ngài phải thị hiện sắc thân như thế. Nhưng dù thân ấy còn tồn tại, mà cái nghiệp lực thúc đẩy thọ lãnh thân sau đã không còn. Chính lòng ái dục đã tạo dòng nghiệp lực khiến đưa đến một đời sống khác, với chánh báoy báo tương ưng. Ứng hoá thân của Phật, vì có hình tướng nên chư Thiênloài Người có thể thấy được. Khi thân ấy đã hoại, Đức Phật trở về với pháp thân vô tướng nên không ai có thể thấy được Ngài. Tất cả chúng ta đều có pháp thân vô tướng như thế, vấn đề ở chỗ chúng tanhận ra không và tu hành cách nào để có thể sống được với nó, niêm mật từng phút giây.

Chúng ta đã xét qua ý nghĩa về sự đản sinh của Đức Phật, để thấy rõ rằng sự xuất hiện của Thế Tôn, vị giáo chủ của chúng ta, là một việc hy hữu ở đời. Cứ mỗi lần mùa Khánh đản đến, người Phật tử về chùa, nghe quý thầy nhắc lại về cuộc đời và những đức tính cao đẹp của Ngài, chúng ta mới biết rằng Ngài đã trải qua vô lưọng kiếp tu hành, cuối cùng mới thị hiệnThái tử Sĩ Đạt Ta ở Ấn Độ, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một bậc vĩ nhân, đã để lại một hình ảnh không bao giờ phai mờ trong lòng những người con Phật khắp năm châu bốn biển. Vì cuộc đời Ngài quá vĩ đại và đẹp đẽ, nên từ xưa đến nay, biết bao người đã dùng mọi hình thức văn hoá để ca tụng cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của Ngài. Biết bao người đã nguyện noi gương Ngài, quên mình để phụng sự chúng sinh, hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của nhiều người. Những sứ giả của Như Lai đã mang thông điệp của Đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộgiải thoát.

Hôm nay, một lần nữa kỷ niệm ngày Phật Đản, chúng ta đem hết tâm thành quy ngưỡngđảnh lễ Ngài. Chúng ta thấy mình rất có phước duyên nên mới được làm người, được thấm nhuần dòng sữa pháp, được chư Tăng Ni hướng dẫn tu hành, được làm bạn đạo cùng những người hiền thiện. Chúng ta nguyện nhớ mãi hình ảnh Ngài bước trên hoa sen khi mới ra đời, để noi gương Ngài cũng bước từng bước an lạc thảnh thơi trên những bất ổn của cuộc sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta tuy ở trần thế, nhưng phải biết vươn lên không để bùn nhơ của ngũ dục làm ô nhiễm. Từ đó chúng ta sẽ góp phần thổi một luồng sinh khí mới vào cuộc đời, khiến mọi người cũng được an lạchạnh phúc. Đây là cách duy nhất để đền đáp ơn khó của Đức Bổnvô cùng quý kính của chúng ta.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11706)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11202)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11928)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10243)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29238)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11954)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11938)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10950)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19618)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7331)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11357)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12861)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12209)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17338)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11473)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22101)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11821)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15918)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12124)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14105)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12605)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13217)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13655)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19992)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14410)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13540)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12341)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11900)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13406)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13729)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31978)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13068)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13424)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13309)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14926)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15727)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14868)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15849)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20775)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21301)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35124)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27529)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43927)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37895)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15136)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15067)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12973)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12641)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15612)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27697)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14959)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11406)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53175)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16521)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13164)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20695)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12607)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15580)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15493)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14756)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15611)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13033)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11762)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12297)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12579)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13476)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12464)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24976)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11966)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12736)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11617)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13733)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14099)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12910)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12741)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13008)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13911)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12444)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14432)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13288)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13758)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14627)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11857)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28283)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11782)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12642)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15057)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12004)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11761)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12854)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11972)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11519)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10280)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant