Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người xuất gia với hiếu đạo

01 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10669)
Người xuất gia với hiếu đạo

Một mùa Vu Lan báo hiếu nữa lại trở về, gợi nhắc cho chúng ta gương hiếu hạnh của Tôn giả Đại Mục Liên cứu mẹ; nhất là hình ảnh của đức Phật Bổn Sư đã báo hiếu cho song thân như lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thân mẫu, ân cần chăm sóc và thuyết cho phụ vương đang lâm trọng bệnh về pháp lạc của thánh quả Dự lưu,… Kể từ ấy, đạo Phật đã đi vào lòng người, và thật sự trở thành Đạo hiếu hạnh nhân luân; đạo lý ấy phát xuất từ nghi biểu bậc thầy của trời người, một con người sống đời dung dị, nhưng tâm hồn thanh cao và nghị lực siêu việt, trở thành những mẫu người giáo dục cho thế nhân ở nhiều góc độ khác nhau; như thi sĩ dân gian từng ca ngợi:

“Chơn như đạo Phật rất màu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài”.
“… Trên thời hiếu báo sinh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sinh Ta Bà”[1].

Thật vậy, cũng là một con người bằng xương bằng thịt, không phải dưới đất chui lên hay trên trời rơi xuống, mà là một con người cũng có cha mẹ, có một cuộc sống rất đổi thông thường như bao con người khác, nhưng có khác chăng cũng chỉ:

“Phàm đã là người xuất gia, đặt chân lên phương trời cao rộng, tâm hình khác tục, nuôi lớn dòng thánh, chấn nhiếp ma quân, báo đáp bốn ân, giúp cùng ba cõi”. (Văn Cảnh sách)

Cha mẹ là người đã cưu mangtrưởng dưỡng chúng ta nên vóc nên hình, nên con người trưởng thành, cất bước vững vàng và hoà nhập vào cuộc đời như ngày nay; nhất là với những người được mệnh danh là trưởng tử Như Lai, là bậc xuất trần thượng sĩ, với sứ mạng “Tác Như Lai sứ và hành Như Lai sự”, hoàn thiện nhân luân và viên mãn siêu thoát, thì không thể bỏ qua đạo lý cơ bản này. Ngay cả, công đức cao vời của đức Phật Thế Tôn, cũng có phần đóng góp không nhỏ của đấng dưỡng dục sinh thành.

“Thế Tôn chủ ba cõi,
Đại Hiếu Thích Ca Văn,
Nhiều kiếp báo thâm ân,
Thế nay thành Chánh giác.”
(Thế Tôn tam giới chủ, 
 Đại Hiếu Thích Ca Văn,
Trần kiếp báo thâm ân, 
Tích niên thành Chánh giác.)

Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường trong dàn nhạc giao hưởng, được trổi lên trong những buổi hoà nhạc trang trọng, nhưng khi kết thúc là chỉ đọng lại trong lòng mọi thính giả một kí ức mơ hồ man mác; mà nó chính là bản nhạc được tấu lên bằng những chuỗi âm thanh hoà quyện êm đềm du dương từ dòng máu theo nhịp tim của mẹ như dòng suối réo rắt chảy vào trong con, và những lời hát nỉ non hoà với tiếng kẻo kẹt võng đưa và xen lẫn tiếng xạc xào gió lướt từ quạt mo trên tay cha hiền ru con giữa trưa hè oi ả. Bản tình ca ấy mãi đệm theo bước chân con đi trên khắp nẻo đường nhân thế. Bản tình ca ấy cho con sự hiểu biết nơi cha và thương yêu nơi mẹ, cho con sức sống vượt chông gai gian khó để hướng đến thành công, cho con niềm tin yêu đối với cuộc sống, dù gì vẫn vui vẻ khi đời đã ban tặng cho mình những cái tốt đẹp hay đưa đến những điều xấu xa, dù được hay mất, dù buồn hay vui,… và dù gì đi nữa, con vẫn phải thành người. Cha mẹ cho con đầy đủ nghị lực ý chí sống: thất bại không thối chí, thành công không ngã lòng. Bởi, công cha và nghĩa mẹ đã đổ ra quá nhiều vì con:

“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Và: “Cha tôi tuy đã già rồi
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà
Cha tôi đã dậy để ra đi làm”.

Với tinh thần hiếu đạo theo Phật giáo tri ânbáo ân là một vấn đề cần phải lưu tâm. Đạo làm con phải biết hiếu dưỡng đối với song thân, nhưng hiếu dưỡng thế nào mới thật là chân chánh và thiết thực nhất để tốt đẹp cho cha mẹ cũng như lợi ích mọi người xung quanh. Phật dạy có 2 cách báo hiếuhiếu dưỡng và hiếu đức. Hiếu dưỡng là phụng dưỡng và an ủi vỗ về cha mẹ; hiếu đức là giúp cha mẹ tịnh tu giới đức và tác phước hành thiện.

Đức Phật cũng đã dạy rất nhiều cho các thầy Tỳ kheo về việc hiếu dưỡng đối với đấng sinh thành của mình. Tuy người xuất gia sống không gia đình, tài sản, nhưng chừng mực nào đó vẫn có thể phụng dưỡng cha mẹ già yếu, nếu cha mẹ không còn cháu con để nương tựa:

“Các thầy nên sớm hôm phụng dưỡng chăm sóc cơm nước và thuốc thang cho cha mẹ già yếu”. (Luật tạng & Kinh tạng)

 Đời cũng như Đạo, xưa cũng như nay, lúc nào ở đâu, cũng có nhiều lời phê phán những đứa con thất trách trong bổn phận đối với đấng sinh thành của mình về việc phụng dưỡng cha mẹ trong lúc già yếu:

“Cha mẹ sống chẳng cho ăn,
Chết lập đàn cỗ làm văn tế ruồi”.
Hoặc: 
“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Với những hạng người con này, cho dù họ có công thành, danh toại, có tiền tài và địa vị gì trong xã hội vẫn bị người đời mai mỉa; họ không đáng cho đời trọng dụng. Tình cha nghĩa mẹ là thứ tình cảm thiêng liêng, khơi nguồn cho mọi tình cảm nhân thế khác, vì còn gì quí báu hơn tình cốt nhục thâm ân; thứ tình cảm được nuôi nấng bằng dòng máu thắm và nắm ruột rứt ra, bằng cả tính mạng của chính cha mẹ, bằng cả tâm huyết trao cho con mình, vỗ về ấp ủ khi con ngủ, để mắt dõi theo khi con bước vào đời, con là những gì cao quí nhất của cả cha lẫn mẹ, vắt cạn cả sức sống của thân già cho con cháu có cuộc sống sung túc để xứng mặt với đời, mà không nghĩ đến bản thân mình quê mùa dân dã. Nếu không phải tấm lòng cao cả của mẹ cha, thì ai có thể chăm lo cho ta cuộc sống như vậy? Với những hạng người vong bản vô ơn, sẽ bị người đời chê trách. Còn nữa, có những người con nhiều tiền lắm của, nuôi cha mẹ với thái độ hững hờ theo kiểu thi ân, không hề có lòng chân thành thương mến. Một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả như vậy mà họ còn đạp đổ, thử hỏi mối quan hệ giữa họ và ta có nghĩa lý gì; nếu có thì cũng chỉ là thứ tình cảm man trá, dụng ý mưu mô. Mối quan hệ tình cảm huyết thống thiêng liêng mà họ còn chà đạp, thì không còn một mối quan hệ tình cảm xã hội nào họ thật lòng trân trọng.

Từ đó, chúng ta có thể nhận chân được, hiếu đạo là những gì được phát xuất từ tấm lòng chân thành của ta đối với đấng sinh thành của mình. Với khối óc hiểu biết và con tim yêu thương như vậy sẽ mách bảo cho chúng ta biết phải làm gì để báo đáp một phần nào ân sâu nghĩa nặng này. Tinh thần hiếu nghĩa này được phát xuất từ tấm lòng chân tình rất mực tôn kính ngay trong mỗi người con. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, người ta vẫn thể hiện được hiếu đạo của mình.

“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
“Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.

Vả lại, tinh thần hiếu đạo này còn cảnh báo cho chúng ta biết về đạo lý nhân quả tương tác tất yếu, nếu gieo thiện nhân thì gặt hái thiện quả, và ngược lại. Bài học đạogia phong này, mang tính đặc thù truyền thừa giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và cháu con trong mỗi gia đình:

“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì;
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công”.

Đức Phật khuyên, một trong những điều hiếu đạo cao cả nhất cần phải lưu tâm, giúp cho cha mẹ tránh xa con đường ác nghiệp, khả dĩ tạo ác nhân, để rồi lãnh lấy khổ đau cho hiện tạimai sau, là giúp cho cha mẹ có cuộc sống thanh cao bằng qui hướng Tam bảo và tác phước hành thiện, để rồi gặt hái hạnh phúcan lạc trong hiện tạimãi mãi về sau. Trong kinh Tăng chi bộ tập 1, tr. 75, đức Phật dạy về cách tri ânbáo ân cha mẹ như:

“Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới, đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích , hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích an trú vào thiện trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và trả đủ công ơn cho mẹ và cha”.

Hơn nữa, làm con cũng phải thực hiện những kỳ vọng của cha mẹ đặt nơi con, nếu không đồng nghĩa với đại nghịch bất hiếu. Đó là mong cho con được thành nhân, mong cho con thành danh, mong cho con nên cơ nghiệp để mở mặt mở mày với người. Vì những hoài bảo và kỳ vọng này mà cha mẹ không quản nại khó khổ, không ngại mình quê mùa, ra sức bươn chải nuôi con ăn học, dạy dỗ và khuyên lơn cho con phải sống cho xứng đáng đạo làm người.

Cũng vậy, tình cha và nghĩa mẹ đã cưu mang tôi trong thời thơ ấu; ngày tôi đi xuất gia còn bé lắm, cha mẹ nén nỗi đau phải xa con thơ mà nhìn nhau gượng cười, riêng tôi ngấn lệ suy nghĩ mông lung, tình cha nghĩa mẹ và tình cảm anh chị em gia đình đang chất chứa ngổn ngang trong lòng tôi. Tất cả với tôi như đang lưu luyến và không nỡ chia ly, nếu không có sự động viên của cha mẹ thì tôi khó bề rứt áo ra đi. Giờ này, suy nghĩ kĩ lại, cha mẹ nào lại không thương con thơ, nếu không phải vì tình thương cao cả, vì sự hy sinh cho ý nghĩa lớn lao thì cha mẹ tôi đâu nở xa đứa con bé nhỏ của mình. Ngày nay, tôi không dám tự phụ mình là đã hoàn thành tâm nguyện của cha mẹ, nhưng chừng mực nào đó tôi cũng đã làm cho cha mẹ mình vui lòng. Có lẽ đây chính là món quà nho nhỏ mà người xuất gia có thể dâng lên cho đấng sinh thành của mình. Nó không sang trọng hay cao quí trên phương diện vật chất, nhưng đây chính là món quà mà cha mẹ tôi hằng đợi mong.

Mong con thành danh, phải nỗ lực hết sức trong việc kiến tạo sự nghiệp bằng học tập, rèn luyện và làm việc, tự đứng trên đôi chân với khả năng chính mình để đi vào đời; không lêu lổng, bê tha, trác táng, hư đốn. Thật vậy, khi thấy con mình thành đạt trong cuộc sống, thì cha mẹ rất hài lòng, cảm thấy toại nguyện trong tuổi già. Đây cũng được xem là một nguồn hạnh phúc, an ủi tinh thần đối với bậc sinh thành. Do đó, lòng hiếu đạo đối với song thân là một đạo lý hết sức tế nhịsống động vô cùng, chỉ có cái đầu hiểu biết và tấm lòng thương yêu chân thành cùng với ý chí quả cảm chúng ta mới có thể thực hiện được đạo lý thâm trầm ấy bằng cách này.

Phật pháp cũng đã cảnh báo cho chúng ta, nếu không nỗ lực thật tu, thật học, thật hành trì và thật thân chứng giác ngộ giải thoát, hoàn thành đạo nghiệp cho chính mình và thực thi sự nghiệp lợi lạc cho thế nhân bằng dùng đuốc tuệ chánh pháp soi sáng thế gian u tối, thì cũng chỉ là kẻ tội đồ núp bóng cửa Phật mà thôi.

“Cha mẹ còn sống vẫn không thể nào nuôi dưỡng, cha mẹ quá vãng cũng không bạt độ nổi vong linh; tội bất hiếu như vậy sẽ không nơi nào dung thứ”. (Phát Bồ Đề Tâm Văn)

Thế nên, người xuất gia đúng nghĩa, phải nhập vai sứ mạng giáo hoá tha nhân, chính là mẫu người đạo đức, giữ cán cân đạo lý cho đời. Người xuất gia là người rất coi trọng hiếu đạo, nhưng cách thể hiện so với người đời có khác, đều hướng về đạo lý “Cội nguồn”. Tình yêu thương của người xuất gia không chỉ với cha mẹ trong hiện đời, mà còn xem “Chúng sinh trong tam giới đều từng là cha mẹ”. Chính vì lẽ đó, hiếu đạo đối với người xuất gia có phần mở rộng hơn, ứng biến hơn, thâm trầm và cao cả hơn rất nhiều so với người đời. Cũng bắt nguồn từ hiếu đạo ấy, nhưng từ phạm vi gia tộc huyết thống, bước sang lãnh vực pháp giới chúng sinh, mà trong tứ ân của người xuất gia đã dạy rõ. Phải là đoá hoa phạm hạnh ngát hương lan tỏa khắp các loài cỏ cây hoa lá trong ngôi vườn chánh pháp.

“Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng
Độc mộc khai hoa vạn thọ hương”.

Tháng bảy lại trở về, thêm rộn ràng lễ hội hiếu hạnh, làm thổn thức con tim của mọi ngườiPhật tử tại gia hay xuất gia hướng về ơn nghĩa sinh thành. Đây cũng là cách làm trong muôn ngàn cách thức của những người con hiếu hạnh hướng về song thân. Cho dù ân sâu nghĩa nặng ấy không thể nào đáp trả trong một sớm một chiều, nhưng cũng là tấm lòng chân thành báo đáp trong muôn một của người con hướng về cha mẹ. Nhưng thật ra cha mẹ mình có đòi hỏi gì đâu, chỉ cần thấy con cháu ngoan hiền hiếu thảohạnh phúc lắm rồi; mà làm cho cha mẹ hạnh phúc, cũng chính là cách tri ân và trả ân tốt đẹpý nghĩa nhất.

Với hiếu đạo, chúng ta phải có một cách nhìn toàn diện hơn. Chừng mực nào đó, người xuất giađời sống nặng về tinh thần hơn, nên khả năng “hiếu dưỡng” về cơm áo và gạo tiền cho cha mẹ rất hạn chế, nhưng không vì thế mà cho rằng người xuất gia không làm tròn hiếu đạo, mà hoàn thành một cách rất có hiệu quả nữa là khác, xuyên qua “hiếu nghĩa” và “hiếu đức” trong vai trò xuất thế, bằng trau dồi giới đức và tịnh tu phạm hạnh của mình, kiến tạo phước điền cho đời, trong đó có cha mẹ thân bằng quyến thuộc; giúp mọi người trút bỏ mọi ưu phiền khổ lụy, ngay phút giây hiện tiền giác ngạn đồng đăng; như cổ nhân đã từng xác chứng: “Nhứt nhơn đắc quả cửu huyền siêu thăng”.



[1] Thơ nhân gian: Nam Hải Quan Âm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11665)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11173)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11908)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10232)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29209)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11920)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11912)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10922)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19596)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7305)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11349)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12840)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12187)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17318)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11444)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22074)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11804)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15896)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12103)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14083)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12583)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13203)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13640)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19963)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14383)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13509)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12329)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11882)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34693)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13383)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13694)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13182)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13057)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13404)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13284)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18022)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14893)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15702)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14832)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15817)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20735)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21267)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35072)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27468)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43880)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37848)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15121)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15029)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12948)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12612)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15581)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27673)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14936)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11393)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53133)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16499)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13143)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20669)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12596)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15568)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15472)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14743)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15591)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13012)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11737)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12276)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12543)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13448)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12426)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24924)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11940)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12714)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11585)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13705)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14050)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12878)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12711)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12973)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13883)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12962)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13587)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12420)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14413)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13274)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13732)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14597)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11828)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12696)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28217)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11757)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12623)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15026)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11968)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11750)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12826)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11951)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11504)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10264)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant