Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh thần hiếu thảo

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9928)
Tinh thần hiếu thảo

TINH THẦN HIẾU THẢO

Hoà Thượng Thích Thanh Từ

Theo phong tục Việt Nam thì ngày Rằm tháng Bảy là ngày trung nguyên, là một trong ba ngày lễ cổ truyền của dân gian. Đối với Phật giáo thì ngày Rằm tháng Bảy có nhiều ý nghĩa nên có nhiều tên: ngày chúng Tăng Tự Tứ, ngày Phật hoan hỷ, ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v.. Mỗi tên đều có mang ý nghĩa riêng của nó.

Ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày chúng Tăng Tự Tứ là thể theo sinh hoạt của Tăng đoàn thời đức Phật. Thời tiếtẤn Độ từ tháng Tư đến tháng Bảy là mùa mưa, đất ẩm ướt, trùng kiến bò lên đầy đường. Chúng Tăng đi khất thực thì dẫm đạp côn trùng làm tổn hại sinh mạng của chúng và làm tổn giảm lòng từ bi của mình, nên đức Phật dạy từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng Ni họp lại một chỗ để tu học, gọi là kiết hạ an cư: kiết là kết, tức là nguyện trước Phật và chúng Tăng suốt ba tháng ở yên một chỗ đã qui định để tu học, không ra khỏi phạm vi ấy. Đến ngày Rằm tháng Bảy làm lễ Tự Tứ: tự là mình, tứ là mặc tình, tức là qua ba tháng ở yên tu học, chư Tăng Ni đối trước những bậc trưởng thượng, cấu xin các Ngài từ bi chỉ lỗi, nếu các Ngài có thấy, nghe hay nghi mình có lỗi, để mình nhận lỗisám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh. Tinh thấn Tự Tứ của Phật dạy rất là đặc biệt. Vì tất cả chúng ta, ai ai cũng mang cái bệnh tự cao ngã mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người, có định kiến cho mình là đúng, nên ít khi chịu nghe lời nhắc nhở xây dựng của ai, dầu người đó là bậc cha mẹ hay thầy bạn. Ngày Tự Tứ, Tăng Ni tự mình cầu xin bậc trưởng thượng chỉ lỗi và dạy bảo để sám hối, sửa đổi. Đó là việc làm rất hay và hữu ích cho việc tu tiến. Người lớn chỉ lỗi, người nhỏ giác ngộ nhận lỗisửa đổi thì mới thành người tốt, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh. Do đó, đức Phật rất vui, nên ngày Tự Tứ cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ.

Ví như trong một gia đình, nhân ngày giỗ tổ tiên, có một đứa con đối trước cha mẹ, anh chị thưa rằng: "Hôm nay là ngày sum họp gia đình, xin ba má, anh chị nếu thấy con, em có lỗi lầm, xin ba má, anh chị thương xót mà chỉ cho con sửa đổi để trở thành người tốt". Là bậc cha mẹ, thấy con làm như vậy có vui không? Chắc chắn là vui lắm! Cũng vậy, chư Tăng Ni đệ tử Phật biết cầu xin những bậc huynh trưởng chỉ lỗi để sửa thì đức Phật rất là hoan hỷ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc là như vậy, nhưng ngày nay vì Tăng Ni quá đông, mặc dù có thực hiện vẫn còn sơ sót.

Tại sao gọi ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan? Chữ Vu Lan dịch âm tiếng Phạn là Vu Lan Bồn, dịch nghĩa là giải đảo huyền. Giải là mở, đảo huyền là tội treo ngược, giải đảo huyềnthoát khỏi tội treo ngược, nghĩa là lễ cầu nguyện cho những người bị tội ở địa ngục ngạ quỷ được thoát khỏi. Có nhiều người hiểu lầm "bồn" là cái chậu, nên đến ngày Rằm tháng Bảy mua sắm hương hoa, bánh trái để vào chậu, đem đến giữa bàn Tổ cúng lạy. Hiểu và làm như thế là sai lầm. Lệ thường đến gần Rằm tháng Bảy là các chùa tổ chức tụng kinh Vu Lan để cho Phật tử báo hiếu ông bà, cha mẹ. Kinh Vu Lan kể rằng: Ngài Mục Kiền Liên tu, sau khi chứng A La Hán, Ngài muốn độ mẹ. Ngài nhớ thuở còn sinh tiền, bà đã tạo nhiều nghiệp bất thiện với người tu, nên dùng thiên nhãn quan sát xem bà thác sanh ở cõi nào, thì thấy bà sanh ở cõi ngạ quỷ đói khổ vô cùng. Động lòng từ hiếu, Ngài bèn xin một bát cơm, dùng thấn lực đưa đến dâng cho mẹ dùng. Mẹ Ngài vừa đưa tay bốc cơm ăn thì cơm hóa thành than lửa, bà ăn không được. Ngài rất thương xót nhưng không biết làm sao cứu, bèn đến cầu xin Phật từ bi chỉ dạy. Nhân ngày chúng Tăng Tự Tứ, Phật dạy Ngài sắm lễ vật thỉnh chúng Tăng cúng dường, nhò sự cầu nguyện của chúng Tăng mà mẹ Ngài được thoát kiếp ngạ quỷ. Chúng Tăng mà Phật dạy Ngài thỉnh cúng dườngcầu nguyện cho mẹ Ngài là những vị ở sơn lâm thiền định, hoặc kinh hành dưới cội cây, là bậc đắc quả A La Hán; hàng chúng Tăng này mới có đủ thần lực cứu mẹ Ngài. Ngài đã thực hành y theo lời Phật dạy, chúng Tăng cầu nguyện, mẹ Ngài thoát kiếp ngạ quỷ được sanh cõi trời.

Có phải do chúng Tăng cầu nguyện mà mẹ Ngài được sanh lên cõi trời không? Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ. Chúng Tăng không thể đưa bà Thanh Đề từ cõi ngạ quỷ lên cõi trời. Sở dĩ bà thoát được kiếp ngạ quỷ là vì xưa bà khởi tâm ác, tạo nghiệp ác nên chết mới đọa làm ngạ quỷ. Nay nhờ các bậc Thánh Tăng với tâm thanh tịnh, chí thành hướng về bà cầu nguyện, thần lực của các Ngài khiến tâm bà tương ứngchuyển tâm niệm ác thành tâm niệm thiện, nên bà được sanh về cõi trời. Ngang đây coi như Ngài Mục Kiền Liên cứu được mẹ đền được ơn sanh dưỡng, ơn hiếu nghĩa Ngài đã đền xong. Do giai thoại này mà ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày Vu Lan hay ngày báo hiếu.

Ngày nay, chúng ta theo gương hiếu của Ngài Mục Kiền Liên, thỉnh chư Tăng cúng dường để cầu siêu hay cầu an cho ông bà, cha mẹ. Việc làm của chúng ta ngày nay có được kết quả như Ngài Mục Kiền Liên không? Hiện tại chúng ta tu chưa chứng quả nên không biết ông bà, cha mẹ sanh ở cõi nào. Chư Tăng Ni ngày nay cũng chưa chứng quả A La Hán, tâm chưa thanh tịnh. Như vậy, người cúng dường và người cầu nguyện chưa hội đủ điều kiện Phật dạy, làm sao ông bà, cha mẹ được siêu thoát? Tôi nói đây không phải phủ nhận rằng sự cầu nguyện của đạo Phật, mà nói để trình bày sự thật cho mọi người thấy, và tránh những việc làm theo thông lệ mà không biết có kết quả hay không. Điều này chúng ta phải gan dạ mà nhìn để thấy được lẽ thật. Ngày nay, đa số Tăng Ni tu hành lôi thôi, Phật tử thì không biết ông bà, cha mẹ mình sanh ở đâu. Cả hai đều không thông làm sao cầu có kết quả? Tuy nhiênlòng hiếu thảo, quý vị cầu thì cầu, còn siêu hay không thì tùy theo nghiệp của người được cầu, chớ không bảo đảm, đó là lời thành thật của tôi.

Hiện tại, quý Phật tử muốn theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên thì phải làm ngay lúc cha mẹ còn sanh tiền. Nghĩa là lúc cha mẹ còn sống, chúng ta phải tạo điều kiện cho cha mẹ hiểu Phật pháp để tu hành. Nếu hiện tại cha mẹ tu, tạo nghiệp lành, khi lâm chung chắc hắn sanh cõi lành rồi, có cầu cũng dư. Nếu chúng ta không lo phụng dưỡng, không tạo cho cha mẹ diều kiện tránh dữ làm lành, khi chết mời Tăng Ni cầu nguyện cho sanh cõi lành; việc làm này thiếu thực tế e không kết quả.

Tất cả kinh sách của thánh hiền để lại đều dạy, làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, thế mà có người làm được, có người không làm được. Mọi người trên thế gian này, ai ai cũng từ tinh huyết cha mẹ mà hợp thành. Thân thể chúng ta là một phần thân thể của cha mẹ. Khi ra đời nếu chúng ta không nhờ cha mẹ nuôi dưỡng thì đã chết mất, đâu có sống và trưởng thành đến ngày nay. Thế mà khi khôn lớn có gia đình chỉ biết thương vợ con, cha mẹ thì quên mất. Trong kinh, Phật dạy tội lớn nhất là tội bất hiếu, phước lớn nhất là phước hiếu thảo. Cha mẹ là người mang nặng đẻ đau, khổ nhọc nuôi dưỡng chúng ta nên vóc nên hình. Ơn cha mẹ lớn nhất mà chúng ta quên được thì có nghĩa ơn nào chúng ta nhớ, do đó mặc tình làm việc bất nhân bất nghĩa. Ngược lại, hiếu kính cha mẹ thì cũng vui làm điều nhơn nghĩa với mọi người.

Lúc Thái Tử trốn vua cha đi tu, người đời cho ngài bất hiếu. Nhưng khi thành đạo, Ngài trở về cung thuyết pháp độ vua cha, di mẫu, hoàng tộc tu hành được an lạc, lợi ích lớn. Nếu không tu thì Ngài không làm được việc này. Ngài Mục Kiền Liên đi tu đâu có quên ơn cha mẹ, nhờ Ngài tu mới cứu được mẹ thoát kiếp ngạ quỷ. Người tu đã chứng quả hay chưa chứng quả đều là những người con có hiếu. Người đời khi lập gia đình, tình thương thường thường dồn cho vợ con, có khi quên mất cha mẹ, không nhớ lo cho cha mẹ lúc tuổi già. Ngược lại, người tu thấy cha mẹ càng già, biết không còn sống bao lâu nữa, nên lo lắng và nhắc nhở tu nhiều hơn để phút ra đi được nhẹ nhàng, an ổn và được sanh vào cõi lành.

Trong cuộc sống phải biết dung hòa với nhau, bậc làm cha mẹ phải dễ dãi cho con cháu dễ gần gũi để nó làm tròn bổn phận làm con. Phận làm con cháu phải thương kính hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Sống như vậy, gia đình mới an vui, hạnh phúc. Trong kinh, Phật có nói bài kệ về công ơn cha mẹ như sau:

Cha mẹ gọi Phạm Vương
Bậc đạo sư hiện đời

Xứng đáng được cúng dường

Vì thương đến con cháu

Do vậy người hiền triết

Kính lễtôn trọng

Thức ănthức uống

Vải mặc và giường nằm

Xoa bóp khắp thân mình

Tắm rửa cả chân tay

Với sở hành như vậy

Đối với mẹ cùng cha

Hiện đời người hiền khen

Đời sau hưởng thiện lạc

Theo triết lý Ấn Độ thì Phạm Thiên là bậc trên hết, nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phạm Thiên, và Phật là đạo sư tên đời nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phật vậy. Phật so sánh lòng hiếu kính cha mẹ ngang với lòng tôn kính Phật và lòng quý kính Phạm Thiên. Có nhiều người nghĩ rằng đi chùa cúng Phật mới có phước, nên lơ là không lo phụng dưỡng. Đó là ý nghĩ sai lầm. Ở đây, Ngài nói cha mẹ mới thật là người xứng đáng cúng dường. Có một lần, Phật đi khất thực ở một xứ mất mùa, Ngài đi cả buổi mà không có thức ăn, có một thày Tỳ kheo đổi lá y được một bát cơm dâng lên Phật, Ngài hỏi: Ngươi còn cha mẹ không?

Tỳ kheo đáp: Bạch Thế Tôn, con còn mẹ.
-- Mẹ ngươi có cơm ăn chưa?
-- Bạch Thế Tôn, con đổi lá y chỉ được một bát cơm dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn.
-- Ta không dám nhận bát cơm này, người đáng nhận bát cơm này là mẹ của ngươi. Hãy đưa cơm về cúng dường cho mẹ ngươi.

Phật phước đức vô lượng mà Ngài nói người đáng nhận bất cơm cúng dường là mẹ của người cúng dường chứ không phải là Phật. Thái độ của Phật cho chúng ta thấy Ngài rất trọng ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Như vậy, lo cho cha mẹ ấm no, tạo điều kiện cho cha mẹ tu hành mà không cúng chùa cũng có phước. Lo cúng chùa mà để cha mẹ đói lạnh, khổ sở, mắc phải tội bất hiếu, chẳng được phước bao nhiêu. Tại sao? Vì cha mẹ là người thân thiết và thương con nhất. Thế nên ai là người hiền trí thì đối với cha mẹ phải kính lễ, tôn trọng, cung phụng đầy đủ bốn món cần dùng và còn phài xoa bóp, tắm rửa cho cha mẹ nữa. Tại sao Phật dạy kỹ như vậy? Vì khi chúng ta còn nhỏ, cha mẹ đã từng làm những việc đó cho chúng ta, bây giờ cha mẹ đã già yếu, chúng ta phải chăm sóc lo lắng lại cha mẹ để đáp cái ơn sanh dưỡng sâu nặng đó vậy. Chúng ta lưu tâm chăm sóc cha mẹ là tạo nguồn an ủi cho cha mẹ được an vui lúc tuổi già, khiến tuổi thọ của cha mẹ được tăng thêm. Nếu chúng ta lơ là không nuôi dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ buồn, cha mẹ buồn mắc bệnh và mật sớm thì chúng ta phải tội bất hiếu. Ở đời cũng có những người con bất hiếu, chẳng những không nuôi dưỡng cha mẹ còn đầy đạo, đánh đập cha mẹ. Lúc tôi còn ở Chơn Không, có một ông già mù hay lên núi chặt củi. Ông có một người con trai và mấy đứa cháu nội. Con ông bắt ông phải đi chặt củi và gánh nước. Hôm nào ông không gánh nước là nó không cho ăn cơm. Nếu ông cãi lại thì nó đánh ông bằng roi mây. Xóm giềng ai thấy cũng bất nhẫn. Nhưng truy nguyên ra thì trước đây ông cũng từng đánh cha ông bằng roi mây! Như vậy, đối với cha mẹ, chúng ta tàn nhẫn bao nhiêu thì con nó trả lại bấy nhiêu. Do đó, chớ bảo con cháu hiếu thảo với mình, mà mình phải có hiếu với cha mẹ trước, con cháu mới bắt chước làm theo. Mình bảo con cháu hiếu thảo với mình mà mình bất hiếu với cha mẹ, làm sao con cháu hiếu thảo với mình được!

Vậy muốn thành người tốt, vừa tròn chữ hiếu với cha mẹ, vừa được người hiền trí quý trọng trong hiện tại và hưởng phước lạc ở mai sau, vừa được con cháu hiếu kính với mình thì phải hiếu thảo với cha mẹ để làm gương, vì đây là nền tảng đạo đức. Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc cho cha mẹ được no ấm an vui. Nếu phụng dưỡng cha mẹ no ấm rồi mà cha mẹ chưa biết tu thì phải khéo khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành, quy y Tam Bảo, giữ năm giới, làm điều phước thiện cho cha mẹ có đủ công đức, khi nhắm mắt sanh vào cõi lành. Đó là điều thiết thực nên làm, bảo đảm kết quả tốt.

Nhân ngày Vu Lan Tự Tứ, chúng tôi mong tất cả quý Phật tử ứng dụng ý nghĩa của ngày này qua hai lĩnh vực: Thứ nhất là lấy tinh thần Tự Tứ của chúng Tăng Ni ứng dụng trong cuộc sống của mình, tức là tập nghe và nhận lời khuyên răn nhắc nhở của người lớn để sửa chữa lỗi lầm để trở thành người tốt. Thứ hai là noi theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên mà hiếu kính cha mẹ. Nếu cha mẹ còn tại thế thì chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ no ấm, và nếu cha mẹ chưa biết tu thì khéo nhắc nhở cho cha mẹ làm lành lánh dữ để sau sanh vào cõi lành. Nếu cha mẹ đã qua đời rồi thì chính mình thành tâm cầu nguyện và thỉnh Tăng Ni nguyện phụ, kết quả được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

Thích Thanh Từ (1997)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11709)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11209)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11935)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10247)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29241)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11956)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11939)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10953)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19625)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7333)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11369)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35314)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12862)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12214)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17344)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11476)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22108)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11826)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15921)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12127)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14108)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12608)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13224)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13656)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19996)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14411)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13546)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12345)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11902)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34731)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13732)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13069)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13428)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13313)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18046)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14930)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15736)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14872)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15850)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20782)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21308)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35136)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27538)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43936)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37909)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15137)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15075)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12974)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12645)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15615)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14962)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11415)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53184)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16523)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13167)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12614)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15585)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15498)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14758)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15614)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13038)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11764)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12301)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12584)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13484)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12471)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24983)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11970)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12741)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11620)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13738)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14101)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12916)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12747)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13011)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13916)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12991)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13611)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12445)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14433)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13294)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13760)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14628)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11859)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28289)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11782)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12645)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15061)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12007)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11771)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12863)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11985)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11521)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10285)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant