Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 29334)
Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

LUẬN VỀ VẤN ĐỀ HỘ NIỆM LÚC LÂM CHUNG
THEO KINH TẠNG NIKAYA
Chúc Phú

Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già
(1)..

blankHy vọng được lợi dưỡnghy vọng được sống là hai hy vọng khó từ bỏ của con người, được Phật dạy trong kinh Tăng Chi(2). Càng về cuối của kiếp người, khi cuộc đua giữa thọ mạngthời gian đang đi vào hồi kết, thì dường như hy vọng lợi dưỡng đã và đang ngấp nghé rời sân để nhường chỗ cho hy vọng được sống, được tồn tại. Đôi khi, với một số chúng sanh nói riêng, các niềm hy vọng này thực sự là những quan ngại, vì chúng chợt bùng lên mạnh mẽ, chi phối và tạo nên một sự ảnh hưởng lớn đến việc thăng hoa hay đọa lạc của một con người.

Vào những thời khắc cuối cùng của kiếp sống, thân thể nằm trong sự khống chế của tật bệnh, của những khổ đau; đó cũng là lúc những bất thiện pháp tiềm ẩn lâu nay có khả năng trỗi lên trong dòng chảy tâm thức. Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo. Thậm chí ngay như một vị xuất gia, đôi khi phải miễn cưỡng chọn giải pháp kết liễu mạng sống vì không vượt qua được những nỗi đau tột cùng của thể xác(3). Thực tế đó đã cho thấy rằng, hơn bao giờ hết, việc hỗ trợ cho chúng sanh, nói rõ hơn là việc hộ niệm lúc lâm chung, không chỉ rất cần trong mọi khoảng thời gian của đời sống, mà còn rất mực quan trọng và đầy ý nghĩa trong những giây phút cuối của đời người. Hộ niệm lúc lâm chung trong giới hạn được hiểu, tức là gấp rút chuyển hóa chúng sanh trong những giây phút cuối của đời sống.

Hộ niệm lúc lâm chung nhìn từ lịch sử kinh điển

Khi hay tin vua Tịnh Phạn có khả năng không qua khỏi, Đức Phật đã thân hành về gấp quê nhà để giáo hóa cho cha. Trên giường bệnh, với bảy ngày còn lại của cuộc đời, với sự khai thị tràn ngập tình thương yêu của Đức Phật, vua Tịnh Phạn đã chứng tứ quả A la hán trước khi xả báo thân. Với Đức Phật, tình thương là phổ quát và không chỉ dừng lại ở người thân. Kinh ghi: Có một tân Tỷ kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh, vừa nghe mấy chữ “tân Tỷ kheo” và “bệnh nặng”, Đức Phật đã thân hành thăm hỏi và giáo giới để cuối cùng, Tỷ kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt(4). Mặc dù bận rộn trong nhiều Phật sự, nhưng khi hay tin Tôn giả Phagguna bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cận lâm chung, Đức Phật đã tùy cơ nghi quang lâm hóa độ(5). Sự phù hợp, đúng lúc đúng thời trong khi thuyết pháp là một trong những đặc tính của Đức Thế Tôn.

Xuyên suốt hệ thống kinh tạng Nikaya, ta có thể gặp rất nhiều trường hợp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài như ngài Xá Lợi Phất, ngài A Nan… đã trực tiếp thuyết giảng cho người sắp chết. Đặc biệt như trưởng giả Cấp Cô Độc, tận tụy một đời phụng Phật và Tăng, nhưng khi lâm chung cũng không dám để Phật bận tâm nhiều, mà chỉ cho người thay mình đến đảnh lễ vấn an Đức Phậtcầu thỉnh ngài Xá Lợi Phất giáo giới. Kinh ghi: Này bạn, hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sariputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc”(6). Một đời tận lực phụng sự Tam bảo, thế mà đến phút cuối của đời mình cũng không dám phiền nhiễu đến Đức Thế Tôn, điều đó đủ thấy tầm mức vĩ đại của một cận sự nam trung kiên thời Đức Phật. Với những nghiệp nhân đã thực hiện trong đời, cộng với sự giáo giới kịp thời của Tôn giả Xá Lợi Phất, trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi thân hoại mạng chung liền sanh lên cõi Tusita (Ðâu Suất thiên)(7).

Từ những trường hợp vừa nêu, có thể nhận thấy rằng thời thuyết giảng, giáo giới trước khi lâm chung luôn được Phật và chúng Tăng chú trọng. Phải chăng trong quan điểm của Đức Phật, khoảng thời gian trước khi lâm chung được xem là thời khắc vàng, có ảnh hưởngchi phối đến sự vận hành của đời sống tiếp theo?

Thời khắc vàng và nội dung giáo giới

Bằng tuệ quán siêu việt, Đức Phật nhận thấy rằng được sanh làm người là một cơ may lớn, vì rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người(8). Đã được làm người và được nghe diệu pháp quả là hạnh phúc lớn lao. Tuy nhiên, được nghe pháp đúng thời và thẩm sát ý nghĩa đúng thời có thể được xem là thời khắc vàng của đời sống theo kinh Tăng Chi(9). Bởi lẽ, mặc dù khi sống, chúng sanh chưa thoát khỏi năm hạ phần kiết sử như: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân, nhưng trong những giây phút cuối của đời sống, được gặp Thế Tôn, được nghe thế Tôn thuyết pháp(10) vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Hoặc giả như tuy không được thấy Thế Tôn, nhưng được thấy đệ tử của Ngài thuyết pháp(11). Sau khi nghe thuyết pháp, tâm vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Theo kinh Tương Ưng(12), một khi đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử thì người đó sẽ vĩnh viễn không còn trầm luân vì đã đặt một chân đầu tiên vào dòng Thánh.

Nếu như khát vọng của Nho gia: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam”(13), thì ở đây, Đức Phật tin tưởng rằng, nếu như bất cứ ai siêng năng trong năm việc và một trong năm việc, đó là tin Phật một cách bất động và sâu sắc, thì nếu được giảng dạy buổi chiều, thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều(14). Ở đây, khả tính giải thoát sở dĩ diễn ra nhanh hoặc chậm tùy thuộc mức độ nỗ lực cũng như thiện căn đã gieo trồng của mỗi chúng sanh.

Cần phải thấy rằng, đời sống của con người vốn dĩ ngắn ngủi và càng ngắn ngủi hơn đối với bất kỳ ai đang lâm bệnh nặng. Do vậy, trong khoảng thời gian này, những nội dung thiết yếu, căn bản của pháp hành giải thoát cần được trang bị cho người bệnh. Nếu như chưa được quy ythọ trì ngũ giới thì tùy theo điều kiện nhân duyên, điều kiện biệt nghiệp của từng người, giúp họ hoàn thành tâm nguyện. Bởi lẽ khi và chỉ khi một người phát nguyện quy y Tam bảohành trì Ngũ giới, thì họ mới chính thức trở thành một vị cư sĩ, đệ tử tại gia của Đức Phật(15). Ngoài việc khơi dậy niềm tin bất động với Phật với Pháp với Tăng cũng như ý thức hành trì nghiêm chỉnh học giới của người cư sĩ(16); cần phải trang bị thêm nhận thức về ba tính chất xuyên suốt của đời sống như vô thường, vô ngã và khổ.

Từ thực tế bài pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới cho cư sĩ Cấp Cô Độc, giáo lý vô ngã đã được Tôn giả Xá Lợi Phất khéo léo trình bày. Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính, không chấp trước vào bất cứ điều gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ(17). Trường hợp giáo giới cho Tỳ kheo đang bệnh nặng Vakkali, cũng là một minh chứng sinh động trong việc trang bị cho người cận tử ba pháp ấn quan trọng này(18).

Với hàng chúng sanh nghiệp trọng, ý thức chấp thủ là một trong những hạn chế dẫn họ tái sanh trong khổ cảnh. Đặc biệt, đối với người cư sĩ tại gia nói chung, thì ý thức chấp thủ vào vợ con, tài sản luôn nổi trội hơn bình thường. Do vì một đời cực nhọc, lao tâm khổ trí để dành dụm của cải, do vì các mối liên hệ thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng người thân… đã cố kết từ lâu; cho nên ý thức chấp thủ sẽ trào dâng và trở nên mạnh mẽ vào lúc này. Do vậy, cần phải khéo léo trang bị cho người bệnh thái độ buông bỏ, xả ly. Ở đây, không những trong hệ thống kinh tạng Nikaya mà cả hệ thống kinh điển Bắc truyền, đã ghi lại rất nhiều trường hợp do vì bám víu, chấp thủ vào thời điểm cận tử, nên phải chấp nhận bị cuốn vào dòng xoáy bất tận của sanh tử, luân hồi.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, nội dung buổi thuyết giảng làm hành trang cho người cận tử theo kinh điển Nikaya bao gồm việc triển khai niềm tịnh tín bất động với ba ngôi Tam bảo, trình bày cũng như hoàn thiện các học giới, củng cố việc liễu tri tính chất vô thường vô ngã của sự vật, hiện tượng. Nếu như người nghe hội đủ các thiện căn đã vun đắp từ nhiều kiếp trước đó, thì có khả năng hoàn thành thánh vị dự lưu hoặc các phẩm vị cao hơn trước khi xả báo thân này. Trong trường hợp nghiệp căn còn nặng, thì ít nhất, với sự hỗ trợ và chuẩn bị ấy, người cận tử sẽ có một tâm thế an lành làm hành trang cho kiếp lai sinh. Lợi ích thiết thực nhất đối với người cận tử, đó là “Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-khưu, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp”(19). Nói chính xác, sẽ được dự lưu phần trong Thánh quả. Một thời khắc không dài nhưng hứa hẹn những tín hiệu tươi sáng cho đời sống vị lai, nếu như ai đó đủ duyên và chuyên tâm nỗ lực. Đó cũng là điều để lý giải tại sao Đức Phật cũng như các vị Thánh tăng thời ấy, luôn quan tâm và xem đấy như là biểu hiện sinh động cho tâm từ bi, mong mỏi độ thoát chúng sanh trong những cơ may cuối của kiếp người.

Mẫu hình cư sĩ độ sanh

Thời xưa gặp Phật đã khó, thời nay được gặp chúng Tăng trong phút cuối của đời người lại càng khó bội phần. Do vậy, việc tự mình giúp đỡ người thân, cũng là một trong những việc làm quan trọng và thiết thực của người Phật tử. Câu chuyện Cha mẹ Nakula(20) là một minh chứng sinh động về việc tương trợ lẫn nhau trong phút giây nguy khốn của đời người. Theo kinh, cha của Nakula bệnh nặng, khó lòng qua khỏi, nằm trên giường bệnh, vô số điều lo nghĩ thiện và bất thiện thôi thúc và dằn vặt tâm tư: là trụ cột kinh tế của gia đình, nếu ông ra đi mà chưa kịp chuẩn bị, thì mẹ con biết nương dựa vào đâu? Con có lẽ sẽ thiếu học, thiếu ăn và nhà cửa có thể sẽ bị bán? Hoặc, vợ mình còn trẻ đẹp thế này, mình chết sớm, có lẽ bà ấy sẽ tái giá mất thôi. Đôi khi, cũng có những tư tưởng thanh cao hơn được phát khởi: khi còn mình, bà ấy còn đi nghe pháp, còn lên tinh xá gặp Phật và chư Tăng, nghiêm trì học giới, khi mình mất rồi, bà ấy có còn thực hiện các việc lành này không?… Vô vàn điều suy nghĩ thiện và bất thiện đồng loạt khởi lên, cuộn chặt tâm tư u ám.

Sợ chồng mình đọa lạc vì trong giây phút mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến, mẹ của Nakula vừa thuận thứ hứa khả, vừa dẫn dắt tâm tư của chồng. Bà bảo rằng: ông à, nếu ông mất đi, có lẽ tôi sẽ vất vả hơn, nhưng tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu và để cuối cùng, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Ông đừng suy nghĩ quẩn quanh về việc tôi sống ra sao khi thiếu ông và thậm chí đừng quá bận tâm về tiết hạnh của một phụ nữ góa chồng, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào, đó là điều mà ông hoàn toàn hiểu rõ. Về việc hộ trì Tam bảo và thăng tiến tâm linh, ông càng đừng lo, vì sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn. Trên phương diện hành trì học giới của người cư sĩ, dù ông không có ở gần để nhắc nhở, nhưng ông hãy an tâm đi, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ giới luật một cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy.

Mặc dù gia chủ Nakula vượt qua trọng bệnh, nhưng những tâm tư rất thực của ông, cùng những lời chia sẻ chân thành của người vợ hiền, đáng được xem là sự điển hình trong tư duy và tính mẫu mực, như pháp, trong việc hỗ trợ lẫn nhau vào giây phút cuối của người tại gia cư sĩ. Thông điệp chuyển tải từ câu chuyện, đó chính là: chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến.

Chuẩn bị cho chuyến viễn hành

Không có cái gì sinh mà không già, không chết(21). Chân lý đó được Phật vận dụng nhiều phương tiện để chỉ bày, nhằm trang bị một nhận thức thường trực trong suy nghĩ của chúng sanh. Nếu như được nuôi dưỡng thường trực quán niệm ấy, thì khi nhân duyên chín muồi, thuật ngữ Phật học gọi là sung mãn, thì cánh cửa bất tử sẽ được mở ra cho hành giả.

Song song với việc tư duy về tính chất phổ quát vừa nêu ở trên, trầm tư về yếu tố không bền vững, không ổn định, bấp bênh của mọi sự vật hiện tượng luôn có khả năng xảy đến cho ta ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quán chiếu vô thường là cách nói khác về trường hợp vừa mô tả. Thứ ba, mỗi tâm hành hay sự vật hiện tượng, sở dĩ chúng hiện hữu là do nhiều yếu tố hòa hợp mà thành. Nhận chân tính chất duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng cũng là một nội dung cần được trang bị. Và nếu như thực hiện được ba yếu tố quan trọng ở trên, hành giả đã và đang kiện toàn về lãnh vực nhận thức, về trí tuệ.

Mang thân phận con người nhưng để làm người đúng nghĩa, đúng với cái danh nghĩa đã mang, như trong kinh gọi là Danh phải tương xứng người(22), thì việc kiện toàn những nguyên tắc đạo đức căn bản của người cư sĩ tại gianăm giới, là một nội dung cần phải chuẩn bị. Nói cách khác, nghiêm chỉnh về học giới là một trong những tiêu chuẩn khi sống trong đời. Đặc biệt hơn, nếu như người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn(23), là điều được khẳng định và tán thán trong kinh.

Sống đã lo sợ nhiều bề, khi gần chết thì càng hoang mang tột độ. Muốn tĩnh tại, bình yên không hoang mang trong hiện tại và giữ được tâm bình lặng trong phút cuối của đời mình, thì ngay trong đời sống này, cần phải kiện toàn niềm tịnh tín Tam bảo một cách vững chãi. Học Phật để rồi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Tam bảo với niềm tin chánh tín, đó là điều kiện cần để có được một thú hướng an vui. Ngoài ra, các học pháp bổ trợ như bố thí, phóng xả, vị tha… cùng những thiện pháp tương ưng cũng cần phải song song thực hiện.

Nếu thực hiện được như vậy thì dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra về thể xác, về thân mạng, dù đột tử mà chết hoặc chết với bất cứ lý do gì như: gặp con voi cuồng chạy; gặp con ngựa cuồng chạy; gặp người cuồng chạy; gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy(24), hoặc do hết thọ mạng mà chết, thì sanh thú hướng về sẽ là thiện thúthiện giới. Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chãi, qua hình ảnh một thân cây khi bị đốn ngã, thì nó sẽ ngã xuôi về hướng mà thân cây từ trước tới nay đang hướng về(25). 

_____________________________________________

(1) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8, kinh Già.

(2) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng, kinh Hy vọng.

(3) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo giới Channa.

(4) Kinh Tương Ưng, tập 4, thiên Sáu xứ, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phẩm Bệnh, kinh Bệnh.

(5) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(6) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc.

(7) Kinh đã dẫn.

(8) Kinh Tương Ưng, tập 2, thiên Nhân duyên, chương IX, Tương ưng thí dụ, kinh Đầu ngón tay.

(9) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(10) Kinh đã dẫn

(11) Kinh đã dẫn

(12) Kinh Tương Ưng, tập 5, Thiên đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh Dighavu.

(13) Luận Ngữ, thiên Lý Nhân: 朝聞道,夕死可矣.

(14) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Bồ Đề Vương Tử.

(15) Kinh Tương Ưng, chương 1, Tương ưng uẩn, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.

(16) Kinh đã dẫn

(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo giới Channa.

(18) Kinh Tương Ưng, tập 3, chương I, tương ưng uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali

(19) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Không ưa nghe.

(20) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, phẩm Cần phải nhớ, kinh Cha mẹ của Nakula.

(21) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(22) Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà la môn, phẩm A La Hán thứ nhất, kinh Bất hại.

(23) Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn.

(24) Kinh Tương Ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 1.

(25) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 2.

Nguồn: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20438)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22351)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18773)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27033)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18740)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19963)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38080)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20157)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28338)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46363)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15457)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65690)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13746)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18642)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15557)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14582)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18742)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12648)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17668)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25500)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38744)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17717)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11251)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18618)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17424)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13229)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13320)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17552)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24317)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12388)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13807)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13002)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12897)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14174)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14636)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21111)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22638)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29986)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13877)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18255)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17065)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12638)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30742)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14655)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13007)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12749)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12522)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13064)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16316)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15224)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23854)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16189)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29011)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20300)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15578)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37257)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45048)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36924)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant