Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trần Nhân Tông: Nước Phật xuân không cùng

12 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12687)
Trần Nhân Tông: Nước Phật xuân không cùng

TRẦN NHÂN TÔNG:

NƯỚC PHẬT XUÂN KHÔNG CÙNG
Nguyễn Thế Đăng

blank“Lúc này ngài lại đi khắp các ngọn núi.

Bảo Sát thưa rằng, ‘Tôn đức tuổi đã cao mà cứ xông pha sương tuyết thì mạng mạch Phật giáo sẽ thế nào?’

Thượng hoàng đáp : ‘Thời ta đã đến, vì thế ta muốn làm kế lâu dài mà thôi’.

Ngày mồng 5 tháng mười, gia đồng của Công chúa Thiên Thụy lên núi tâu : ‘Công chúa Thiên Thụy mệt nặng, xin gặp Điều Ngự để chết’. Vua nghe xong, trầm ngâm nói: ‘Cũng là thời tiết thôi’.

Rồi chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo với ngài… Ngày 15 tháng mười, sau khi dặn dò xong xuôi, ngài lại quay về núi. Ngủ đêm ở chùa Báo Ân của Siêu Loại.

Tờ mờ sáng ngài đi đến chùa thôn Cổ Châu và tự tay đề lên vách bài kệ:

Số đời một hơi lặng
Tình trần hai biển trăng
Cung ma chi sá kể
Nước Phật xuân không cùng
(Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân)”

Đây là bài thơ cuối cùng của vua, vì sau đó ngày 18 ngài lên núi Ngọa Vân, đến ngày 1 tháng 11 thì an nhiên ra đi.

Điều trước tiên chúng ta ghi nhận là không có một vị vua nào, không có một thiền sư nào của Việt Nam mà những ngày cuối cùng, những giờ phút cuối cùng được sử sách ghi lại một cách chi tiết như ông. Có phải đời ông gắn bó quá nhiều với lịch sử nên lịch sử cũng công bằng mà không sơ sài giản lược với ông?

Bài thơ cuối cùng. Đó là những lời nói cuối cùng ở đỉnh cao nhất của một cuộc đời của mình, đang sắp sửa nhảy vào vực thẳm ngăn cách đời này với đời khác, hay vực thẳm ngăn cách đời này với cái Vô Hạn. Thế nên, ít ra, nó phải nói lên tâm thức mình khi ở đỉnh cao nhất của đời mình. Huống gì, việc cố tình viết lên vách chùa, đây là một gửi gắm, một thông điệp cho những đời sau.

Ở đây chỉ là một cố gắng nghiên cứu, học hỏi, bắt chước, để sống là theo ngài. Để làm được việc đó, chúng ta cố gắng tìm ra những gì là thực chất, là nội dung và động cơ của đời ngài. Có lẽ đó là cái ngài muốn để lại cho đời sau, chứ không phải lịch sử của cuộc đời ngài và thời đại ngài, dù chúng có vinh quang đến mấy, vì lịch sử thì không thể nào được lập lại.

Thế số nhất tức mặc. Số đời là một hơi thở tịch lặng. Một cuộc đời với nhiều biến cố, vừa là một nhà vua, một nhà chiến lược, một nhà chính trị, một nhà quân sự ngoại giao, lại có trách nhiệm như một quốc sư, việc gì của ông cũng để lại dấu ấn lớn trong lịch sử, thế mà cuộc đời ấy với ông chỉ là một hơi thở. Hơn nữa, một hơi thở im lặng, một hơi thở tịch diệt. Một hơi thở của thiền định, của chánh định.

Một cái tâm với nhiều hoạt động như vậy mà vẫn tịch diệt. Với nhiều cái sanh ra như vậy mà vẫn vô sanh. Sống với nhiều sự việc như vậy mà vẫn là vô sự. Tâm vô sự bởi vì tâm sanh tử đã “nhàn”, đã “mỏi”, đã “lão”, chỉ còn tánh Không ngự trị, chỉ còn một chánh định của tánh Không:

Ai buộc mà đi cầu giải thoát
Chẳng phàm đâu phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng lão
Y cũ am mây một sập thiền
(Sơn phòng mạn hướng)

Có thể nào nhiều việc, rất nhiều việc mà nơi mỗi công việc đều là một giải thoát? Do đó là người vô sự. Điều này Kinh Kim Cương trong hệ thống Bát Nhã, một kinh chính yếu của truyền thống Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra. Thiền tông cũng chỉ ra. Ông là một thiền sư, lại là người mở đầu một dòng Thiền, ông hẳn phải thân chứng cái tâm Không vô sự đó, cái tâm kim cương không ô nhiễm đó.

Một cái tâm đã đạt đến cái bản tánh của nó là tánh Không thì ‘Phướn cũng chẳng động, gió cũng chẳng động”, như lời của Lục Tổ Huệ Năng nói trong phẩm Tựa của Pháp Bảo Đàn Kinh.

Còn đây là lời của ông về những việc làm của mình:

Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi
Quách nhiên bất thức, tai ngu nghe ắt còn vang

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ 9).

Bài kệ trong phần chú thích của Cư Trần Lạc Đạo Phú có thể tóm tắt “tâm địa”của ông, “một hơi thở lặng” của ông, “một sập thiền”của ông:

Tất cả muôn pháp
Đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh
Pháp không chỗ trụ.
Nếu đạt tâm địa
Ứng dụng vô ngại
Không gặp thượng căn
Thận trọng chớ nói.

Chính vì “đạt tâm địa, tâm không chỗ sanh. Pháp không chỗ trụ” mà cuộc đời ông chỉ là sự “ứng dụng vô ngại” của tâm ấy. Cuộc đời ông là sự khai triển của tự do vô ngại của tánh Không vào trong thời cuộc ông đang sống. Sự bất biến tùy duyên ấy là một hơi thở tịch lặng, một hơi thở tịch lặng của tánh Không.

Thời tình lưỡng hải ngân. Tình trần hai biển trăng. Lưỡng hải ngân, theo chú thích trong Thơ Văn Lý Trần của Viện Văn Học, 1989, là hai con mắt. Các dịch giả khác đều dịch với ý là hai con mắt. Ở đây dịch ”hai biển ngân” là “hai biển trăng”.

Thế và thời điêu để chỉ đời, trần gian. Nhưng thế ám chỉ không gian nhiều hơn. Thời thì chỉ thời gian nhiều hơn.

Tình trần hai biển trăng.Cuộc đời, thế thời lên xuống trôi qua. Với biết bao biến cố, nhưng tất cả được nhìn bằng đôi mắt đầy ánh sáng, hai biển trăng.

Đôi mắt đầy ánh sáng là đôi mắt của “tính sáng”. “Tính sáng” được nói đến trong 3 hội đầu trong Cư Trần Lạc Đạo Phú gồm 10 hội. Bảy hội sau không còn dùng hai chữ tính sáng, nhưng dù dùng những chữ khác thì vẫn cùng một nghĩa: huệ nhật, tính thức, tính sáng soi, vô tâm, lòng trong sạch, lòng minh kính, lửa giác ngộ, thánh trí, Bồ đề thêm sáng… Nhờ đôi mắt của tính sáng, đôi mắt là tính sáng ấy mà tình trần trở nên thanh tịnh, trở nên giải thoát khỏi nhân duyên sanh diệt:

Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên.
Dồi cho vằng vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.
(Hội 6)

Nhờ đôi mắt tính sáng này mà thấy, mà quán thấy lời dạy trong bài kệ chấm dứt Kinh Kim Cương: ”Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt, ảnh; như sương cũng như chớp; hãy nên quán như thế”.

Ông ở trong tính sáng ấy nên ông thấy:

Cốc hay thân huyễn
Chẳng khác phù vân
Vạn sự giai không
Tựa dường bọt biển.
(Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca).

Tính sáng này là ánh sáng căn bản, ánh sáng bổn nguyên, là Tịnh Quang (Clear Light, Skt:abhasvara, TT: od- gsal) của Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng như hiện nay chúng ta thấy. Quả thật, Phật giáo dù ở đâu, dù có thể chẳng hề tiếp xúc liên lạc với nhau, dù có những phương tiện tu hành khác nhau vẫn luôn luôn đi đến một thực tại tối hậu, đi chung một hướng, một đại đạo, một Phật đạo vậy.

Chính nhờ đôi mắt hai biển trăng này, đôi mắt của tính sáng này mà nhìn “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương). Chính đôi mắt hai biển trăng này mà thấy Nước Phật: “Nước Phật xuân không cùng”.

Ma cung hồn quản thậm. Phật quốc bất thắng xuân. Cung ma chi sá kể, cung ma chẳng ‘nhằm nhò’ gì, cung ma không còn nữa. Còn nước Phật thì xuân không cùng, xuân khôn xiết, xuân ‘hết sảy’. Sanh tử (cung ma) không còn bóng dáng, tất cả chỉ một vị Niết Bàn.

Đây là kết quả tất nhiên của hai câu đầu. Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng. Đời sống tự nó là giải thoát, là Niết Bàn.

Chúng ta cần lưu ý đều này nữa. “Nước Phật” ở đây không chỉ có nghĩa là Niết Bàn thanh tịnh tịch diệt mà ông tự chứng, mà đó còn là nước Đại Việt mà ông trực tiếp lãnh đạotrang nghiêm. Nước Phật đây là một nước Đại Việt được Phật hóa từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong như hai câu thơ khi ông chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, trở lại Thăng Long:

Xã tắc hai lần phiền ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Chúng ta thấy câu đầu “Số đời một hơi thở lặng” nói đến sự tịch diệt của tâm và do đó của tất cả các pháp. Đấy là nghĩa Tịch của tâm.Câu hai nói đến”tính sáng soi” của tâm và của tất cả các pháp. Đấy là nghĩa Chiếu của tâm. Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu. Tâm là Tịch Chiếu.

Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu, dùng những chữ tương đương là Chỉ và Quán, hay Định và Huệ (xem phẩm Định Huệ trong Pháp Bảo Đàn Kinh). Thiền là sự việc Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời, Định Huệ đồng thời. Và vì Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời, nên Thiền tương ưng với bản tâm vốn Tịch Chiếu viên mãn, vốn Chỉ Quán viên mãn, vốn Định Huệ viên mãn. Quả của Thiền là cái tâm Tịch Chiếu viên mãn này:

Cái Tịch Chiếu vốn tự nhiên của bản tâm cũng tức là cái Chân Không Diệu Hữu của Đại thừa.

Tịch là phương diện bên trong. Chiếu là phương diện bên ngoài. Kết hợp và nâng cấp cả hai cho đến viên mãn hợp nhất là con đường Đại thừa:

Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm”
(Hội thứ 6)
“Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc”
(Hội thứ 8)

Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập: tích tập trí huệ (nội) và tich tập phước đức (ngoại). Cũng chính nhờ tích tập trí huệ mà đắc Pháp thân; và tích tập phước đức mà có Báo thânHóa thân. Con đường Bồ tátcon đường đầy đủ cả “nội và ngoại”, đầy đủ huệ và phước:

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc (biết)”

(Hội thứ 8)

Chúng ta thấy Trần Nhân Tông là người “Phúc tuệ gồm no”. Con đường Điều Ngự Giác Hoàng đã đi là con đường Bồ tát hạnh. Ngài đã phụng sự không mệt mỏi cho xã hội, cho quốc gia dân tộc và cho chúng sanh cho đến hơi thở cuối cùng.

Sự phụng sự không mệt mỏi đó y cứ trên nền tảng trí huệ, trên nền tảng Thiền:

Biết vậy!
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương,
Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
(Hội 2)
Vậy mới hay
Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân quên gốc nên ta tìm Bụt
Nếu biết rồi chỉn Bụt là ta.
(Hội 5)

Chúng ta cần học tập, sống theo Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Chúng ta cần kế thừa Thiền của Trần Nhân Tông. Thiền ấy đặt hai chân lên cuộc đời cụ thể này bằng Bồ tát hạnh. Bởi vì có đi trên con đường Thiền với Bồ tát hạnh, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình và đóng góp phần mình làm cho xã hội sống được một đời sống có ý nghĩa.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11706)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11202)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11928)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10244)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29238)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11954)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11938)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10950)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19619)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7331)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11357)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12861)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12209)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17338)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11473)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22101)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11821)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15918)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12124)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14105)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12605)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13217)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13655)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19992)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14410)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13540)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12341)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11900)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13407)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13729)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31979)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13068)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13424)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13310)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14926)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15727)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14869)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15849)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20775)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21301)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35125)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27529)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43927)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37895)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15136)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15067)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12973)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12642)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15612)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27697)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14959)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11406)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53176)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16521)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13164)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20695)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12607)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15581)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15493)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14757)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15611)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13033)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11762)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12297)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12579)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13476)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12464)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24976)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11966)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12736)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11617)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13734)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14099)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12911)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12741)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13009)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13911)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12444)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14432)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13288)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13758)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14627)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11857)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28283)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11782)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12642)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15057)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12004)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11761)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12854)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11972)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11519)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10280)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant