Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán đảnh

17 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 13658)
Quán đảnh

QUÁN ĐẢNH (灌頂- Abhiṣeka)

DONALD K. SWEARER
Thanh Hòa dịch

Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997). Vật được quán đảnh không chỉ có những pho tượng và tháp mà còn bao gồm cả những tranh, sách, và những đồ vật khác mang ý nghĩa tượng trưng. Abhiṣeka, từ tiếng Phạn này thường được dịch là “consecration—quán đảnh”, mở rộng ý nghĩa này bao gồm cả vương vị (rājābhiṣeka) và chỉ định cho những hành động hay nghi thứcđặc biệt là việc rưới hoặc xoa bằng nước thánh. Mục này bàn đến các nghi thức thánh hóa những đồ vật tiêu biểu, đặc biệt trong sự thờ cúng của Phật giáo, cụ thể là những tượng và xá lợi được thờ trong bảo tháp, ngoại trừ những nơi thiêng liêng như tự viện và những nhân vật tôn kính như các cao tăng hoặc vua chúa. Hơn nữa, dù thanh tẩy bằng nước là yếu tố đặc thù trong các nghi thức quán đảnh, bài viết này còn mở rộng ý nghĩa của abhiṣeka vượt lên trên hành động thoa xức để kể đến nhiều kỹ thuật và dụng cụ mà qua đó những vật dụng trên được thánh hóa, làm cho chúng trở thànhnăng lựctốt lành cả về những gì chúng tượng trưng hay biểu trưng cho cũng như những gì chúng trở thành thông qua việc quán đảnh.

Chẳng hạn như, một tượng Phật đã được quán đảnh đồng thời tượng trưng và là sự hiện diện sống động của đức Phật, trong khi một tượng chưa được quán đảnh chỉ tượng trưng cho Đấng giác ngộ mà thôi.
Một bức tượng Phật hay Bồ tát trở thành biểu tượng trong ý nghĩa rằng nó có cái tinh túy của cái mà nó biểu trưng nhờ thông qua một nghi thức quán đảnh. Trái lại, một viên xá lợi Phật tự bản chất nó đã có cái tinh túy của đức Phật. Vì thế, một ngôi tháp trở thành một biểu tượng khi nó thờ một viên xá lợi, và một viên xá lợi có thế được đặt vào trong một pho tượng Phậtmục đích tương tự. Một viên xá lợi được sử dụng theo cách đó sẽ đóng vai trò như một phương tiện mà thông qua đó những pho tượng Phật và ngôi tháp được quán đảnh. Tục tôn thờ thi thể được lưu lại (toàn thân xá lợi) của những vị cao tăng ở Trung Hoa có thể được xem như lối biểu đạt cao nhất sự biểu tượng hóa ấy—sự dung hợp hoàn toàn hình ảnh của một vị thánh và di cốt (xá lợi). Cũng như nhiều ký hiệu hay những di vật đã được sử dụng và liên quan—dấu chân, cây bồ đề, bình bát, tượng, và thậm chí cả sách—đã hướng đến biểu thị sự hiện hữu của một đức Phật không còn nữa (parinirvāṇīzed), nhiều nghi thức được phát triển để đưa vào chúng sự hiện hữunăng lực của Phật. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những biểu tượng chính yếu được gắn liền với những nơi quan trọng nhất của sự tu tập, cụ thể là những viên xá lợi và những pho tượng Phật. Khắp châu Á Phật giáo, từ Ấn Độ đến Nhật Bản, những ngôi tháp, những ngôi chùa, những tượng sảnh trở thành những đặc điểm chính yếu của kết cấu phức hợp mang tính chất tự viện, nơi được xem như là “trú sở của Như Lai” (buddhavāsa), kết hợp với “trú sở của tăng – tăng già lam” (saṅghāvāsa). Như những thuật ngữ này cho thấy, tu viện đã và tiếp tục giữ vai trò làm nơi mà ở đó những vị tăng không chỉ theo đuổi những lộ trình thiền định và học tập mà còn tham dự vào những buổi lễ cầu nguyện như những chức sắc nghi lễ. Một trong những hoạt động nghi lễ được cử hành bởi những vị tăng, mà trọng tâm là việc cúng Phật, bao gồm cả những biểu tượng quán đảnh.

Thỉnh Phật quang lâm

Không có gì lạ lắm, tất cả những khóa lễ quán đảnh khắp châu Á không giống như nhau. Chúng phản ánh những truyền thống Phật giáo khác nhau cũng như những nền văn hóa đặc thù mà ở đó chúng thịnh hành. Tuy không một nghi thức nào thích hợp cho tất cả các hoàn cảnh nhưng vẫn có những sự tương đồng. Nổi bật lên trên tất cả, những hình tượngxá lợi Phật cũng như những di vật khác liên hệ đến đức Ngài khiến cho đức Ngài trở nên hiện hữu trong một khoảng thời giankhông gian nhất định. Bằng vào cách ấy, chúng đảm nhiệm vai trò vật tương đương hay thay thế thiết thực của đức Phật, đặc biệt là trong những bối cảnh lễ lạt.

Cuốn Kosalabimbavaṇṇanā (Bản tán dương pho tượng ở Kosala), một bản văn Pāli của người Sir Lanka vào thế kỷ thứ XIII, miêu tả tượng giữ vai trò thay thế đức Phật như thế nào. Cũng như phiên bản đại thừa được biết đến khá nhiều về câu chuyện liên quan đến vua Ưu Điền (Udayāna - 優填王), sự vắng mặt của đức Phật trở thành nhân duyên cho việc kiến tạo một hình tượng của đấng Thế tôn. Trong tạng Pāli, vua Ba-tư-nặc (P: Pasenadi, skt: Prasenajit - 波斯匿) của nước Kiều-tát-la (Kosala -憍薩羅) đến viếng thăm đức Phật mới biết Ngài đã đi du hóa phương xa. Vài ngày sau, khi đức Phật trở về, vua bày tỏ là đã thất vọng chừng nào khi không gặp được Phật và thỉnh cầu làm một pho tượng giống như đức Như lai cho cả thế gian được lợi lạc. Đức Thế Tôn đã ưng thuận và dạy thêm rằng nếu ai kiến tạo được một pho tượng dù bất cứ kích cỡ hay chất liệu gì thì cũng đã tích lũy được vô lượng vô số công đức. Trở về nơi ở của mình, vua Ba-tư-nặc cho làm một pho tượng Phật bằng gỗ chiên đàn (skt: candana - 栴檀 - 檀香 - 栴檀香) thể hiện 32 tướng tốt của một bậc Vĩ nhân (Skt, mahāpuruṣa; Pāli, mahāpurisa), pho tượng được dát vàng và quấn y vàng. Sau khi hoàn tất, vua thỉnh Phật đến xem tượng được tôn trí trong một bảo điện. Khi đức Phật bước vào điện, pho tượng hành động như thể nó được ban cho sự sống, đứng dậy chào bậc Chánh đẳng giác; đức Phật tuyên bố rằng sau khi Ngài nhập niết bàn, pho tượng này sẽ khiến cho giáo pháp của Ngài tồn tại trong vòng năm ngàn năm. Câu chuyện này xác định rằng việc thể hiện đức Phật thông qua những di vật, trường hợp này là một pho tượng, tạo ra một điểm quy chiếu cho sự bày tỏ những tình cảm tôn giáo và cơ hội tu tạo phước thiện nhờ vào sự hiến cúng. Hơn thế nữa, trong khi vật thế hóa Phật và pháp—một chi tiết quan trọng của nghi thức quán đảnh—những sự thể hiện như thế làm tăng thêm sự tồn tại của giáo pháp (skt. śāsana).

Quán đảnh như một sự chuyển hóa

Về mặt hiện tượng học, những buổi lễ quán đảnh chuyển đổi những pho tượng, tháp, và những biểu tượng vật thể khác của đức Phật thành những vật thay thế Ngài. Như được thuật lại trong kinh Đại bát niết bàn (Mahāparinirvāna-Sutra), tại lễ trà tì đức Phật, thân thể của Ngài chuyển đổi thành những viên xá lợi không phải thông qua nước như trong nghi thức quán đảnh mà thông qua lửa. Thân thể đã nhập diệt nhận một hình tướng mới dưới dạng phân tán qua những viên xá lợi—những di vật được thực thể hóa từ thần lực của Phật. Đối với những tượng Phật, bản Kosalabimbavaṇṇanā và những biên khảo khác quy chiếu những phẩm tính của một đức Phật sống vào những biểu tượng, gồm cả sự sinh động hóa. “Điểm nhãn Phật”, một thuật ngữ thuần túy Phật giáo chỉ cho những buổi lễ quán đảnh tượng, mang một ý nghĩa tương tự. Chỉ là một đồ vật, trong trường hợp này là một sự mô phỏng dáng hình hơn là một viên xá lợi óng ánh, trở thành một đức Phật. Ở Đông Nam Á, những buổi lễ khai nhãn cũng được tin là làm sống lại những bức chân dung của những vị cao tăng cũng như tăng thêm năng lực cho những bài vị tổ tiên được thờ trong các tự việnbàn thờ tư gia.

Ở Đông nam á, như Bernard Faure đề cập đến trong bài nghiên cứu của ông về các biểu tướng của những vị thiền tăng đã viên tịch mà còn lưu lại toàn thân xá lợi, sự chuyển hóa như thế đòi hỏi một quá trình hành lễ mang tính mô phỏng được truyền đạt bằng “phép hoán dụ và biểu trưng mà trong đó dấu tích trở thành thực như thân thể” (tr. 170). Lễ quán đảnh ở miền bắc Thái lan bắt đầu từ lúc mặt trời lặn và kết thúc vào lúc mặt trời mọc, phản ảnh ba giai đoạn quán chiếu trong đêm Bồ tát đạt được Phật quả. Trong suốt khóa lễ đêm ấy, những vị tăng đọc lại câu chuyện từ bỏ những mục tiêu thế gian của vị Phật sắp thành, những năm thực hành khổ hạnh lang thang, những cám dỗ của ma quân, và sự giác ngộ sau cùng của Ngài. Ở Cam pu chia và bắc Thái lan, sự tái hiện lại những cảnh từ lịch sử của Phật, đặc biệt sự cúng dường sữa và cháo mật của nàng Sujātā, làm nổi bật bản chất biểu đạt của nghi lễ. Vào lúc mặt trời mọc, những vị tì kheo tụng lại các bài kệ an vui của đức Phật về sự giác ngộ của Ngài: “Trải qua nhiều kiếp sống ta lang thang trong nẻo luân hồi; kiếm tìm nhưng không tìm được kẻ dựng nhà. Đau khổ thay sanh tử cứ tiếp nối. Ôi kẻ dựng nhà! Ngươi đã bị tìm thấy. Ngươi sẽ không dựng được nhà nữa. Tất cả rui mè của ngươi đã bị bẻ gãy, những xà nhà của ngươi đã bị phá hủy. Tâm ta đã đạt được trạng thái tuyệt đối; khát ái đã bị chấm dứt.”

Không gian vật lý để cử hành nghi thức quán đảnh cũng được tái hiện theo lối mô phỏng lịch sử đức Phật. Trong suốt buổi lễ, pho tượng chính sẽ được quán đảnh được đặt trên một cái nệm cỏ bên dưới cây bồ đề xanh tươi ở trong tượng sảnh của một tu viện. Khu vực ấy được thiết kế giống như một Bồ đề tòa, tòa giác ngộ ấy đã mọc lên một cách diệu kì từ một chiếu cỏ—phẩm vật cúng dường do Sottiya, người sống trong rừng, dâng cho đức Phật sẽ thành. Một sợi dây cát tường kéo dài từ một pho tượng đã được quán đảnh của tu viện bao quanh bồ đề tòa, nhờ đó mà thiết lập được một mối liên hệ với pho tượng Phật đầu tiên—pho tượng đã được ấn chứng bởi chính đức Phật. Những pháp cụ khác tượng trưng cho những cảnh đặc biệt trong câu chuyện về sự truy tầm giác ngộ của Bồ-tát, cũng như các đức Phật Như lai khác trong Hiện kiếp.
Trong suốt buổi lễ, đầu của những pho tượng đặt trong bồ đề tòa được phủ bởi một tấm vải trắng và mắt được che kín bằng sáp ong. Chúng vẫn còn ẩn khuất, cũng như vị Phật tương lai đã từ giã cung điện của mình và tìm kiếm sự tịch mịch nơi rừng vắng. Vào lúc bình minh, các vị tì kheo tụng bài kệ giác ngộ và những vật che đậy đầu và mắt được tháo bỏ, tượng trưng rằng với việc khai nhãn, những pho tượng đã được truyền vào những phẩm tính của Phật quả: “Đức Phật đã viên mãn tâm từ không giới hạn, đã tu tập 30 ba la mật trong nhiều a tăng kì kiếp, cuối cùng đạt được giác ngộ. Con kính lễ đức Phật ấy. Nguyện xin những phẩm đức ấy thể nhập vào trong pho tượng này. Nguyện xin sự giác ngộ không ngằn mé của Phật được truyền vào trong pho tượng này cho đến khi chánh pháp không còn tồn tại nữa.” Trong những nền văn hóa Phật giáo khác nhau, nghi thức khai nhãn tượng cũng có những hình thức khác nhau. Mắt có thể được vẽ một cách biểu trưng hay rõ ràng trên pho tượng, hoặc mắt được khắc nhẹ bằng một cây kim; tuy nhiên, dù là hình thức nào, chính nhờ việc khai nhãn mà nó trở thành một biểu tượng tín ngưỡng sống động.

Buổi lễ chuyển hóa một pho tượng đơn thuần thành biểu tượng thay thế cho Phật luôn in dấu lịch sử của Phật lên trên pho tượng ấy. Những mẩu chuyện đóng một vai trò cũng quan trọng trong việc chuyển hóa những di vật khác thành những vật biểu trưng cho Phật và các vị thánh tăng. Những tháp thờ xá lợi đánh dấu hành trình của Phật khắp Á châu rộng lớn: Sự ban bố rộng rải tóc xá lợi, những tiên đoán về việc phát hiện xương xá lợi về sau bởi các vị vua đức hạnh, và những dấu chân đã được in dấu trên đá và đất minh chứng cho sự hiện hữu không gián đoạn của Phật. Những câu chuyện liên quan đến những sự kiện này trở nên nổi bật không chỉ trong việc tạo nên những địa điểm linh thiêng mà còn vào những kỳ lễ tái quán đảnh hằng năm và những buổi lễ làm mới.

Sự việc một viên xá lợi thật có thể được đặt vào trong một pho tượng Phật và những pho tượng có thể được thờ bên trong một bảo tháp cùng với những viên xá lợi cho thấy một niềm tin rằng cả hai đều là những biểu tượng cho đức Phật sống. Thêm một minh chứng cho niềm tin này, những buổi lễ quán đảnh tượng ở miền bắc Thái lan có thể bao gồm việc đặt thêm một bộ nội tạng được làm bằng bạc vào trong pho tượng. Khi một khoang trống sau lưng pho tượng gỗ chiên đàn được Chōnen (938–1016) — một vị Phật tử Nhật bản đi hành hương — mang về Nhật và thờ ở Seiryōji (清涼寺-Thanh lương tự), Kyoto, được mở ra vào năm 1954, người ta phát hiện nó chứa một bộ nội tạng tương tự như thế được từ tơ lụa.

Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh. Ở bắc Thái lan, người ta tụng kinh quán đảnh tượng Phật để truyền những sự toàn thiện về mặt tâm linh (ba la mật) vào trong pho tượng, những vị tăng được cho là đã đạt được sự tỉnh giácthần lực ở cấp độ cao được mời “rót” chúng vào trong những pho tượng được quán đảnh trong khi đã tọa thiền định xung quanh bồ đề tràng. Trong truyền thống Tây tạng những phương pháp thiền sādhana (thành tựu) là tâm điểm của lễ quán đảnh (rab gnas) những pho tượng và bảo tháp. Quy trình quán tỉ mỉ gồm có nhiều bước như sau: phân tích đối tượng cần quán đảnh thành không; tưởng đến đức Phật được chọn (yi dam) từ cái không; thỉnh đức Phật này và hình tướng được tưởng tượng của ngài nhập vào pho tượng; chuyển chúng thành bất nhị; và cuối cùng chuyển cái không có tính bất nhị thành tướng trạng ban đầu của pho tượng. (Bentor 1997).

Quán đảnh như một sự pháp hóa

Vào đêm giác ngộ, đức Phật đã quán triệt nguyên nhân của khổ đau và con đường dẫn đến sự diệt tận khổ đau ấy. Sự giác ngộ này được thành tựu nhờ quá trình thấu suốt những mê mờ mà nó ngăn cản sự hiểu đúng bản chất của các pháp là vô thường và cùng khởi lên do duyên và phụ thuộc lẫn nhau (PRATĪTYASAMUTPĀDA). Tóm lại, thuật ngữ Phật và Pháp là bao trùm lẫn nhau; Phật quả cần phảisự pháp hóa. Chính vì vậy, những bảo tháp, tôn tượng, và những biểu tượng khác của đức Phật, như cây bồ đề, cũng tiêu biểu cho pháp, điều đó gợi lại câu nói của đức Phật, “ai thấy ta, người đó thấy pháp.” Cho nên, những buổi lễ quán đảnh không chỉ Phật hóa các sự vật mà còn pháp hóa chúng nữa.

Là một bộ phận của những nghi thức quán đảnh, pháp hóa gồm có nhiều dạng khác nhau. Những bản sao các bộ kinh và nhiều văn bản khác có thể được đặt trong những pho tượng lớn hơn kích người hoặc trong những bảo tháp trong suốt những buổi lễ quán đảnh. Thông lệ này góp phần tạo nên “tín ngưỡng thờ kinh sách” như một di vật của đức Phật, đặc biệt trong truyền thống đại thừa. Cội nguồn của thông lệ truyền một cách thần bí bài kệ duyên khởi (“Những pháp mà chúng khởi lên từ một nhân / Như lai đã tuyên bố về nhân của chúng / và trạng thái diệt của chúng / đấng từ bỏ vĩ đại đã dạy như thế”) vào trong những pho tượng và bảo tháp có từ thế kỷ thứ II Công nguyên và tiếp tục cho đến hiện tại như một phương pháp tu tập thuần túy Phật giáo. Trong truyền thống Tây tạng, Atisha (982–1054) đề cập đến việc sử dụng mang tính chất thần chú câu kệ này trong những nghi thức quán đảnh, và ngày nay nó được dùng chung với việc tiên đoán cát hung trong những buổi lễ quán đảnh tượng PhậtTrung quốc và Hàn quốc. Những truyền thống Phật giáo khác sử dụng những bộ kinh quan trọng nhưyếu tố trung tâm của buổi lễ quán đảnh tượng. Trong trường phái Nhật liên tông của Nhật bản, người ta tin rằng đặt cuốn kinh Pháp Hoa trước pho tượng trong suốt thời gian làm lễ quán đảnh bảo đảm nó sẽ trở thành một vị Phật của giáo pháp thanh tịnhhoàn hảo.

Ở Đông Nam Á, những kỹ thuật phức tạp được phát triển cho việc pháp hóa những pho tượng Phậtbảo tháp. Ở bắc Thái lan, việc xây cất một pho tượng Phật hay một bảo tháp bao gồm cả việc đính kèm theo những pháp đồ vào trong đó; và ở Cam pu chia, việc khắc những pháp ấn (Sanskrit, lakṣaṇa; Pāli, lakkhaṇa) giữ vai trò trung tâm trong lễ quán đảnh tượng Phật. Vị tăng hành lễ chạm vào các bộ phận của thân tượng trong khi tụng những câu tiếng Pāli (những thần chú), nhờ đó tạo nên một pháp thân của những khái niệm mang tính giáo lý tương đương với các thân phần của pho tượng. Sự biến đổi này có thể khiến cho một sự tái hiện được thể hiện từ gỗ hoặc đồng, đã được diễn tả một cách sống động bởi phép khai nhãn, trở thành một biểu tượng tín ngưỡng đáng tôn thờ (Bizot).

Quán đảnh như một sự gia trì

Tập quán thờ cúng những di vật, tượng, ảnh, xá lợi, và những biểu tượng khác của đức Phật và các vị thánh tăng phản ánh một tín ngưỡng mang tính thần biến rằng những năng lực thần bí đi cùng với sự đạt ngộ tâm linh phi thường có thể được cụ thể hóa dưới dạng vật thể. Như thế, những nghi thức quán đảnh thể hiện đức Phật và các vị A la hán không phải chủ yếu như những nhà thông thái tâm linh lý tưởng hóa và sự nhân cách hóa pháp mà như những vị ban phép mầu, những người bảo hộ, và những bậc ban phát ân huệ. Cho nên, những nghi thức quán đảnh xông ướp vào những biểu tượng này những năng lực tương ứng đặc biệt với những thuộc tính tinh thầnvật chất đã đạt được thông qua sự tu tập khổ hạnh, đặc biệtthiền định.

Bởi vì từ đầu đức Phật đã được tôn thờ không chỉ như một bậc đạo sư mà còn như một người có năng lực thần thông, cho nên những biểu tượng thay thế cho đức Thế Tôn có thể được coi như tương đồng. Sự tin tưởng vào năng lực của những xá lợitôn tượng không phải là một hình thức suy thoái và hậu kỳ của lòng tín mộ trong Phật giáo mà là một trong những bộ phận tạo nên tín ngưỡng và sự hành trì của Phật giáo từ thời kỳ đầu. Về phương diện này, những nghi thức quá đảnh có thể được xem như một phương tiện thực tiễn qua đó khía cạnh này của Phật giáo lan truyền và phát triển khắp châu Á Phật giáo.

Ở Cam pu chia, lễ quán đảnh truyền không chỉ những phẩm đức thiêng liêng do sự giác ngộ đem lại của đức Phật vào trong tôn tượng mà còn có cả nhiều năng lực hộ trì, bao gồm năng lực của các vị trời và thần, linh hồn của tổ tiên, và các vị thiên thần hộ vệ. Trong suốt lễ quán đảnh năm 1989 cho ngôi bảo tháp được trùng tu trên đỉnh núi Doi Suthep nhìn xuống thành phố Chiang Mai ở miền bắc Thái lan, thần lực của những vị thần hộ vệ núi, linh thể của những vị khổ hạnh kỳ bí ở trên núi, và những vị vua nổi tiếng của Chiang Mai đã được khấn lên, cũng như thần lực của xá lợi Phật được tôn trí ở đó.

Những nghi thức hằng năm quán đảnh lại các pho tượng và những bảo tháp thờ xá lợi thường được kèm theo bởi những chuyện kể chứng nhân cho những năng lực thần bí của chúng. Xá lợi phát ra những tia sáng rực rỡ trước mắt người xem đầy kinh ngạc, hoặc những pho tượng quý được cho là đã biến mất trước đây hay đã bị lấy trộm bỗng dưng xuất hiện để được thanh tẩy và được tôn kính hơn do lòng tín mộ. Hơn nữa, những buổi lễ quán đảnh không chỉ là dịp để làm sống dậy và tăng thêm năng lực cho những pho tượng mới hoặc được sửa chữa lại. Những tín đồ có thể mang những pho tượng thờ ở nhà đã được quán đảnh trước đây, những bùa chú, và những biểu tượng khác của Phật và bồ tát ra để được quán đảnh lặp đi lặp lại nhiều lần, nhờ đó để tăng thêm năng lực hộ trìgiá trị kinh tế thực thụ của chúng.

Nghi thức quán đảnh của Phật giáo thể hiện một bức tranh văn hóa phong phú của tôn giáo. Cụ thể chúng mở ra một hướng nhìn cho một sự hiểu biết đa dạng hơn về lòng tín mộ trong Phật giáo, nơi mà tượng, xá lợi, và nhiều biểu tượng vật thể khác của Phật và các vị thánh tăng giữ vị trí trung tâm.

Thư mục tham khảo

Bentor, Yael. Consecration of Images and Stū pas in Indo-Tibetan Tantric Buddhism. Leiden, Netherlands: Brill, 1996.
Bentor, Yael. “The Horseback Consecration Ritual.” In Religions of Tibet in Practice, ed. Donald S. Lopez, Jr. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1997.
Bizot, François. “La consecration des statues et le culte des morts.” In Recherches nouvelles sur le Cambodge, ed. François Bizot. Paris: École Francaise d’Extreme-Orient, 1994.
Bowker, John, ed. Oxford Dictionary of World Religions. Oxford and New York: Oxford University Press, 1997.
Faure, Bernard. The Rhetoric of Immediacy: A Cultural Critique of Chan/Zen Buddhism. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1991.
Gombrich, Richard. “The Consecration of a Buddha Image.” Journal of Asian Studies 26, no. 1 (1966): 23–36.
Ruelius, Hans. “Netrapratisthapana-eine Singhalesische Zeremonie zur Weihe von Kultbildern.” In Buddhism in Ceylon and Studies in Religious Syncretism in Buddhist Countries, ed. Heinz Bechert. Götttingen, Germany: Vandenhoeck und Ruprecht, 1978.
Stone, Jacqueline. “Opening the Eyes of Wooden and Painted Images.” In The Writings of Nichiren Daishonin. Tokyo: Sōka Gakkai, 1999.
Swearer, Donald K. “Hypostasizing the Buddha: Buddha Image Consecration in Northern Thailand.” History of Religions 34, no. 3 (1995): 263–280.
Swearer, Donald K. Becoming the Buddha. Princeton, NJ: Princeton University Press, 2004.
Thompson, Laurence G. “Consecration Magic in Chinese Religion.” Journal of Chinese Religions 19 (1991): 1–12.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9934)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9915)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20492)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10314)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9937)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10317)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9916)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34380)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9607)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8706)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9270)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11066)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8511)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9784)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9168)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20402)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19172)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8707)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8844)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12081)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9582)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22982)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8974)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9247)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9950)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9862)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10582)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10910)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12453)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9312)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9165)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9293)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10436)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22200)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16585)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9514)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10142)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8372)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8272)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9430)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8827)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8609)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12241)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9119)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9595)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8597)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9427)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8595)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8339)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8440)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10159)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23595)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9554)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9362)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8984)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8324)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8501)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7855)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7948)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8773)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8897)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10037)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8631)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8602)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30369)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30033)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24130)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9236)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9609)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9488)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9483)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7832)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9049)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28166)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23654)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12217)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8859)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14087)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9642)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9314)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9624)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30856)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32667)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33968)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10561)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12454)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58613)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10635)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9376)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9530)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13925)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14187)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10753)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28102)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23252)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10114)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant