Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 23077)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

ÐỨC PHẬT ÐẢN SANH
Qua thi phẩm ÁNH SÁNG Á CHÂU
{
Light of Asia}
của Sir Edwin Arnold


 Trần Phương Lan dịchchú giải

---oOo---

Lời người dịch : Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy:” Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh,vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại. Người ấy là ai ? Ðó là đức Như Lai, bậc A-la-Hán, Chánh Ðẳng Giác” ( Kinh Tăng Chi I )

Ðức Phật đã xuất hiện ở đời dưới hình thức một vị thái tử đầy đủ hảo tướng, tài đức vẹn toàn. Khi trưởng thành, Ngài cũng lập gia đình như một người thường, nhưng sau đó, Ngài muốn tìm giải pháp cho vấn đề sanh tử của đời người, nên Ngài đã làm đại sự xuất thế và đã chứng ngộ chân lý. Ngài trở thành bậc Vô Thượng Giác Ngộ và đem giáo lý của Ngài soi sáng trí tuệ của những ai muốn nghe pháp để tận diệt khổ đau, đạt đến chân hạnh phúc, Niết Bàn bất tử.

Suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giáo lý của Ðức Phật đã đem lại biết bao niềm hạnh phúc cho các dân tộc Châu Á và dần dần được truyền bá rộng khắp năm châu, vì thế Ðức Phật đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao công trình văn học nghệ thuật, nghiên cứu, khảo cổ… từ ngàn xưa đến nay

Vào cuối thế kỷ thứ 19, sự xuất hiện của thi phẩm Ánh Sáng Á Châu hay sự Xuất Thế Vĩ Ðại (The Light of Asia or The Great Renunciation) của Sir Edwin Arnold (1832-1904), là một hiện tượng văn học Anh đặc biệt mang đậm dấu ấn Phật giáo đã gây sự chú ý của giới trí thức đương thời. Thi sĩ này vốn là một nhà quý tộc xuất thân từ trường Ðại học King’s College thuộc Viện Ðại Học Cambridge và sau đó học ở Viện Ðại Học Oxford Luân Ðôn, là những lò đào tạo trí thức cho giới thượng lưu của cả Âu Châu ngay từ thế kỷ XII. Nhân chuyến công du sang Ấn Ðộ để làm hiệu trưởng trường Ðại học Poona College ở Bombay (1856 - 1861), vị ấy đã đến với đạo Phật và được cảm hoá vào đạo. Kết quả của thời kỳ Ðông du ấy đã đạt đỉnh cao nhất với thi phẩm The Light of Asia và nhiều dịch phẩm từ nguyên tác Sanskrit. 

Ðặc biệt thi phẩm The Light of Asia được xây dựng quanh chủ đề cuộc đời Ðức Phật từ khi Ngài từ cung trời Tusita (Ðâu-suất-đà) nhập mẫu thai Hoàng hậu Màyà, rồi sinh ra làm thái tử sống đời vương giả ở hoàng cung cho đến ngày Ngài làm đại sự xuất thế tầm cầu chân hạnh phúc để cứu độ nhân loại. Sáu năm khổ hạnh và trận chiến đấu cuối cùng đầy khốc liệt của đạo sĩ Gotama trước sự tấn công như vũ bão của ma vươngma quân quanh cội Bồ đề đã diễn ra vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa đầy sáng tạo của thi sĩ cho đến khi Ngài chứng đắc tam minhliễu ngộduyên khởi của vạn pháp. Ngài trở thành bậc chiến thắng trên chiến trường lúc bình minh vừa xuất hiện ở phương Ðông, ánh sao mai mờ dần nhường chỗ cho ánh mặt trời ló dạng trước niềm hân hoan của chư Thiênloài người trên thế giới.

Mặc dù là một người Tây phương sống cách xa thời đức Phật gần hai ngàn năm trăm năm, tác giả tự nhận mình đã thay lời một Phật tử Ấn Ðộ diễn tả lòng ngưỡng mộ thành tín sâu xa của mình đối với cuộc đời kỳ diệu của đức Phậtsự nghiệp thuyết pháp độ sanh của ngài qua thi phẩm trữ tình này, làm cho nó có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các tầng lớp trí thức Tây phương và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây phương, nên đã góp công rất lớn vào sứ mạng truyền bá đạo Phật ở Âu Châu và đặc biệt ở Anh từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay

Thi phẩm chấm dứt với lời phát nguyện quy y Tam Bảo của chính tác giả như bất kỳ một đệ tử thuần thành nào trước Ðức Thế Tôn đã đem lại ánh sáng của trí tuệtừ bi để cứu khổ muôn loài chúng sanh trên thế gian

Sau đây là trích đoạn sự kiện đức Phật đản sanh trong phần mở đầu thi phẩm này.

 

Chương một 

Kinh của Ngài, Phật Thế Tôn cứu độ

Sĩ-đạt-ta là Thái tử giáng trần,

Trong đất, trời, địa ngục chẳng ai bằng

Bậc Tối thắng, Ðại từ bi, Trí tuệ

Ðược tất cả muôn loài đồng kính lễ

Bậc Ðạo Sư dạy Giáo pháp Niết bàn.

Như vầy Ngài tái thế cứu nhân gian:

Dưới cõi tối cao, Tứ Thiên Vương (1) ngự

Trị thế gian, và dưới đó là miền

Cao nhưng gần, nơi các vị thánh hiền

Sẽ sống lại ba mươi ngàn năm tới

Chầu Ðức Phật, trên trời cao chờ đợi

nhân gian, hiện năm tướng giáng sanh,

Nên Chư Thiên hiểu biết các điềm lành

Ðồng bảo:” Phật tái sanh giúp thế giới”.

“- Phải, ta đi giúp trần gian, Ngài nói,

Ðời cuối cùng qua bao kiếp tử sanh

Ðến với ta và kẻ học pháp lành

Ta sẽ xuống giữa Thích-ca (2) bộ tộc

Dưới sườn núi miền nam Hy-mã-lạp (3)

Có thần dân mộ đạo với minh quân”.

Một đêm kia, chánh hậu Tịnh Phạn Vương (4)

Bà Mà-Yà (5), ngủ yên bên chúa thượng,

Thấy mộng lạ: sao từ trời hiện xuống

Sáu hào quang màu hồng ngọc huy hoàng

Từ sao kia là một đại tượng vương

Sáu ngà (6) trắng như sữa thần tham dục (7)

Giữa cõi không, chiếu vào bà lập tức

Nhập mẫu thai bên phải. Tỉnh gìấc mơ

Diễm phúc siêu phàm tràn ngập long bà

Và nửa cõi đất, hào quang mầu nhiệm.

Ngay trước ban mai, hào quang xuất hiện:

Các đồi cây lay động, sóng ngàn trùng

Lặng yên dần, hoa nở rộ tưng bừng

Như giữa ngọ, tận các miền ngục tối

Niềm hân hoan của bà hoàng chiếu dọi.

Khi mặt trời ấm áp nhuộm màu vàng

Các khu rừng, xuyên tận các đại dương.

Một tiếng thì thầm dịu dàng vang vọng

“ Hỡi các người chết kia, nay phải sống,

Dậy mà nghe, hy vọng: Phật–đà sanh!

Ở Lâm-tì-ni (8) vạn vật an bình

Ðang trải rộng, tâm thế gian náo nức

Làn gió mát, lạ, lướt qua biển, đất.

Khi bình minh ló dạng, chuyện đem trình

Những người đoán mộng tâu:”Chính điềm lành!

Sao con Cua cùng mặt trời tụ hội,

Hoàng hậu sanh một hoàng nam nối dõi,

Bậc Thánh hiền đại tuệ lợi quần sanh

Sẽ giải thoát loài người khỏi vô minh

Hoặc chiếu cố thế gian và ngự trị (9)

*

Theo cách này, đức Phật–đà giáng thế:

Ðúng giữa trưa, Hoàng hậu đứng lâm bồn

Dưới Sa-la (10) đại thọ trong khu vườn,

Thân hùng vĩ, thẳng cao như ngọn tháp,

Dưới tàng lá sum sê, hoa thơm ngát,

Cùng muôn loài, khi biết đã đến thời,

Cây khôn liền uốn nhánh lá cao vời

Xuống đất để làm mái che Hoàng hậu.

Mặt đất bỗng hiện đủ ngàn hoa báu

Trải tọa sàng. Chuẩn bị tắm hoàng nam

Ðá kế gần phun nước suối trong nguồn (11)

Pha lê chảy, mẫu hoàng ôm con trẻ

Thật bình an. Ngài vẹn toàn thân thể,

Ba mươi hai tướng tốt báo điềm lành (12)

Tin mừng vui vang đến tận cung đình.

Nhưng khi chúng đem kiệu hoa đến đón

Ngài hồi cung, đám người khiêng đôi cáng

Hoá ra là bốn vị Ðại Thiên Vương

Từ núi Tu-di (13) canh giữ bốn phương:

Thần phương Ðông có biệt danh Trì Quốc (14)

Ðoàn tùy tùng khoác xiêm y bằng bạc,

mang theo những khiên mộc ngọc trai.

Thần phương Nam,Tăng Trưởng chính tên ngài,

Ðoàn kỵ mã, Cưu-bàn-trà đại quỷ,

Cỡi ngựa xanh, mang khiên thanh ngọc quý,

Thần phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương (16),

Ðoàn quân hầu là các vị Long thần (17)

Cỡi tuấn mã màu máu đào rực rỡ,

Mang các tấm khiên bằng san hô đỏ.

Ða Văn là chúa tể ở Bắc phương (18)

Ðoàn Dạ-xoa hộ tống mặc toàn vàng (19)

Cỡi hoàng thố, mang khiên vàng chói sáng.

Các thiên thần vẫn tàng hình hiện xuống

Khiêng cáng và mặc y phục thường dân,

Song thật ra là các đại lực thần

Cùng rảo bước cùng phàm nhân hôm đó,

loài người không làm sao biết rõ:

Trên cõi trời tràn ngập nỗi hân hoan

Cũng chỉ vì hạnh phúc của trần gian

Khi biết Phật Thế Tôn vừa giáng thế.

Việc này Tịnh Phạn Vương chưa hiểu nghĩa,

Các điềm kia làm chúa thượng lo âu,

Cho đến khi các người giải mộng tâu

Hoàng tử sẽ cầm quyền khắp cõi thế,

Là một Chuyển luân vương (20) lên ngự trị,

Một ngàn năm mới chỉ có một lần,

Ngài chủ quyền luôn bảy thứ bảo trân (21)

Bánh xe báu, ngọc thần kỳ, tuấn mã,

Ngựa báu sẽ dẫm lên ngàn mây gíó,

Một tượng vương sắc như tuyết trắng ngần

Ðược sinh ra để chở vị Thánh quân,

Ðại thần giỏi và tướng quân vô địch,

Một hoàng hậu với dung nhan toàn bích,

Dáng yêu kiều hơn thần nữ Rạng đông (22)

bảy báu kia cùng vị Ðông cung,

Vua ra lệnh kinh thành khai đại lễ:

Mọi lối đi được quét chùi sạch sẽ,

Nước hoa hồng được rảy khắp trên đường,

Cây treo đèn, cờ xí rợp mười phương

Trong lúc đó, từng đám đông vui vẻ

Trố mắt nhìn người múa gươm oai vệ,

Bọn làm trò, nhữ rắn, bọn leo dây,

Bọn nhào lộn và vũ nữ từng bầy

Váy lấp lánh với chuông rung thánh thót

Như cười nhẹ quanh đôi chân nhảy nhót,

Bọn mang mặt nạ da báo, hươu, nai,

Bọn đá chim, luyện cọp và quăng dây,

Bọn đánh trống và những bầy đô vật,

Làm mọi người thật hân hoan hạnh phúc.

Còn thương nhân tấp nập tự đằng xa,

Nghe tin đản sanh đem tặng lắm quà

Trong mâm vàng, đầy khăn quàng, ngọc biếc,

Cây hương liệu, sắc trời chiều tơ dệt

Thật mỏng manh dẫu xếp mười hai tầng

Cũng không thể che khuôn mặt thẹn thùng,

Những chiếc váy được thêu đầy ngọc trắng,

Gỗ đàn hương từ thị thành phụ cận

Cung kính chào “ Hoàng tử Sĩ-đạt-ta”(23),

“ Toàn thành công” họ nói đúng tên kia.

Giữa khách lạ từ phương xa từng đám,

Một bậc Thánh tóc râu màu tro xám,

A-tư-đà (24), người có một đôi tai

Dài chấm đất, nghe âm hưởng từ trời,

Khi cầu nguyện dưới gốc cây sung mãn (25).

Các Thiên thần đồng ca bài “Phật đản”,

Người tinh thông kiến thức bởi tu thiền,

Người đến gần, dáng điệu thật trang nghiêm,

Vua đảnh lễ và mẫu hoàng ra lệnh

Ðưa hoàng nhi đặt dưới chân bậc Thánh.

Nhưng khi nhìn Thái tử, lão Hiền nhân

Thốt tiếng kêu: “Ðừng làm vậy, Nương nương!”

Và đặt khuôn mặt già nua lập tức

Tại chỗ ấy, tám lần người chạm đất,

Nói:” Ta xin đảnh lễ đấng Hài đồng!”

Ngài thật là vị cứu thế chính tông!

Với hồng quang (26), lòng bàn chân có ấn (27),

Cuộn lông mềm, cuốn theo hình chữ Vạn (28),

Ba mươi hai tướng tốt của Thánh hiền,

Và tám mươi tướng phụ đã hiển nhiên (29)

Ngài quả thật chính là người Giác ngộ,

Ngài sẽ thuyết pháp lành và cứu độ

Những người nào được học pháp sau này,

Dù chẳng bao giờ ta được nghe Ngài,

Vì ta sắp phải lìa đời quá sớm,

Ta trước đây chỉ mong ngày số tận,

Tuy nhiên nay ta đã thấy được Ngài.

Phải biết rằng, tâu chúa thường ở đời,

Ðây chính Ðóa Hoa trên cây nhân loại,

Hằng vạn năm mới nở ra sáng chói,

Nhưng nở rồi, làm tràn ngập thế gian

Với hương thơm của trí tuệ siêu phàm,

Và mật ngọt của tấm lòng Từ ái,

Từ gốc rễ của Hoàng gia vĩ đại

Một đóa Hoa sen Thiên giới nở ra,

Ôi! Muôn vàn hạnh phúc hỡi Hoàng gia!

Tuy nhiên cũng chẳng hoàn toàn ân phước,

Vì một lưỡi gươm kia đành xuyên suốt

Cõi lòng bà, do Thái tử ra đời,

Trong lúc bà, hỡi Chánh hậu tuyệt vời,

Ðược Thiên thầnloài người yêu quý

Vì đã sanh bậc Thánh nhân kỳ vĩ,

Nên từ đây bà quá đỗi thiêng liêng

Không thể nào còn chịu lắm ưu phiền,

cuộc đời này chính là khổ hải,

Do vậy trong vòng bảy ngày trở lại,

Lệnh bà không đau đớn dứt sầu bi”.

Việc xảy ra: ngày thứ bảy đêm kia,

Hoàng hậu Màyà mỉm cười say ngủ,

Và từ đấy, đức bà không đi nữa,

Thật hài lòng lên cõi Ðâu-suất đà (30)

Vô số Thiên nhân sùng bái đức bà,

Và hầu hạ Mẫu hoàng thành Thiên nữ.

Còn Hoàng gia tìm mẹ nuôi Hoàng tử,

Ðó chính là Di mẫu Go-ta-mì (31),

Bầu sữa thanh cao nuôi nấng Ấu-nhi,

Ðôi môi ấy sẽ cứu toàn thế giới.

Như vậy theo truyền thuyết, tất cả chư Thiênloài người đều hân hoan trước sự ra đời của Ðức Phật, cho nên bốn vị Thiên Vương đã đích thân đem đoàn tùy tùng của mình xuống vườn Lâm-tì-ni để khiêng kiệu hoa hộ tống Hoàng hậu và Thái tử hài nhi về kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) cùng với đoàn người hầu cận vua, và bày tỏ sự hân hoan trước niềm hạnh phúc lớn lao của loài người hôm ấy.

  

CHÚ GIẢI :

 

(1) Tứ-Thiên-Vương (Catumahàrajika): Bốn vị Thiên vươngcõi trời thấp nhất trên đỉnh núi Simeru (Tu-di).

(2) Sakya: Tên bộ tộc thuộc quyền cai trị của vua Suddodana.

(3) Himalaya: Tuyết sơn, vùng đồi núi cao nhất thế giới ở miền Bắc Ấn Ðộ và Nepal ngày nay.

(4) Suddodana (Tịnh Phạn Vương): Vị vua cai trị bộ tộc Thích-ca thời bấy giờ.

(5) Màyà (Ma-da): tên bà chánh hậu của vua.

(6) Voi trắng sáu ngà hay Hào quang sáu sắc: là biểu tượng của Ðức Phật theo truyền thống kinh điển.

(7) Kàmaduk: Tên của vị thần tham dục theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ.

(8) Lumbini: Tên một hoa viên nằm trên đường đi của hoiàng hậu lúc bà sắp lâm bồn.

(9) Những người tiên tri đoán mộng giải thích rằng khi sao con Cua hội họp với mặt trời, hoàng hậu sẽ sinh một hoàng nam là bậc thánh hiền đại tuệ có thể ngự trị toàn thế giới hoặc sẽ xuất gia thành đạochứng quả Giác ngộgiải thoát loài người khỏi vô minh.

(10) Sala: cây hoa cao lớn ở vườn Lumbini, theo truyền thuyết, là nơi hoàng hậu đứng và sanh Thái tử.

(11) Hai giòng nước nóng và lạnh từ trời tuôn xuống để tắm hoàng hậu và Thái tử hài nhi theo truyền thuyết.

(12) Thái tử hài nhi có đủ ba mươi hai tướng tốt lành của một bậc Ðại nhân theo khoa xem tướng ở cổ Ấn Ðộ.

(13) Bốn vị Ðại Thiên Vương bảo hộ thế giới ngự trên đỉnh Tu-di là trung tâm của vũ trụ theo vũ trụ quan cổ Ấn Ðộ.

(14) Dhatarattha (Trì Quốc): Vị Thiên vương canh giữ phương Ðông, có đoàn tuỳ tùng là các thần Gandhabba (Nhạc thần).

(15) Virulha (Tăng Trưởng): Vị Thiên vương canh giữ phương Nam, có đoàn tuỳ tùng là các thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà).

(16) và (17) Virupakkha (Quảng Mục): Vị Thiên vương canh giữ phương Tây, có đoàn tuỳ tùng là các thần Nàga (Long thần hay Xà thần).

(18) và (19) Kurera (Ða Văn): Vị Thiên vương canh giữ phương Bắc, có đoàn tuỳ tùng là các thần Yakkha (Thần Dạ-xoa, Ðại lực).

(20) Chuyển luân vương (Cakkavatti): Vị vua cai trị toàn cầu bằng chánh pháp.

(21) Vua có đầy đủ bảy báu vật: bánh xe báu, ngọc báu, ngựa báu và nữ báu.

(22) Rạng đông: tên của một nữ thần trong thần thoại cổ Ấn độ.

(23) Siddhattha: tên của Thái tử có nghĩa là Toàn thành công, Toại nguyện.

(24) Asita: tên vị thánh ở vùng Tuyết sơn đã đắc các thắng trí (Abhinna: lục thông) và tám thiền chứng (jhàna), nhờ thiên nhĩ nghe tin các Thiên thần ca ngợi Ðức Phật đản sanh, nên đã đến thăm Ngài tại hoàng cungđảnh lễ Ngài khi thấy các tướng tốt của Ngài.

(25) Peepul hay pipala: một loại cây sung ở Ấn độ.

(26) Hào quang màu hồng ngọc.

(27) Lòng bàn chân có dấu bánh xe.

(28) Lông cuốn theo hình chữ vạn (Svastika) là một tướng tốt trong 32 tướng chính.

(29) 80 tướng phụ của bậc Ðại nhân theo khoa tướng số ở Ấn độ, có thể trở thành một vị Chuyển luân vương hay một bậc Giác ngộ để cứu đời.

(30) Theo truyền thống kinh điển, Hoàng hậu Màyà từ trần và tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất-đà (Tusita), chứ không phải cõi trời ba mươi ba (Tavatimsa) như trong thi phẩm này.

(31) Thứ phi Mahàpajipati Gotamì, em gái của chánh hậu Màyà, trở thành mẹ nuôi Thái tử từ đó và giao hài nhi mới sanh của bà là Hoàng tử Nanda cho một nhũ mẫu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11712)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11213)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11938)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10255)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29245)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11956)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11946)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10956)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19628)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7335)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11369)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35321)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12870)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12221)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17361)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11480)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22111)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11839)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15926)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14109)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12611)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13225)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13661)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20013)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14422)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13556)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12347)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11904)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34735)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13733)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31985)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13209)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13070)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13429)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13317)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18050)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14932)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15745)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14884)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15862)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20798)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21321)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35158)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27547)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37919)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15140)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15078)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12994)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12668)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15621)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27728)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14974)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11417)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53189)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16541)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13184)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20704)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12627)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15604)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15509)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14781)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15626)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13048)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11777)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12312)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12585)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13493)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12481)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11992)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12758)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11621)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13762)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14119)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12927)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12759)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13022)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13931)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13003)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13623)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12464)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14452)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13314)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13779)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14638)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11868)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12729)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28304)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11795)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12654)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15070)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12010)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11787)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12884)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11995)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11521)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10285)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant