Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Phật Giáo Tịnh ĐộNhật Bản

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8621)
03. Phật Giáo Tịnh Độ ở Nhật Bản

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

II. Dẫn nhập

3. Phật Giáo Tịnh ĐộNhật Bản

3.1 Khởi đầu của Đức tin nơi Phật A Di Đà trong khuôn khổ của những Tông phái khác

Việc truyền bá Phật Giáo Tịnh ĐộNhật Bản, “Chân Tông” đóng một vai trò ít quan trọng hơn là việc đón nhận trong niềm tín ngưỡng Đức Di Đà trong việc hành trì của các tông phái khác. Ngay cả Chigi (538–597) người khai sáng Tông Thiên Thai đã đón nhận căn bản về niềm tin A Di Đà trong hệ thống hỗn hợp ấy. Ngài đã khuyên về việc học thuộc lễ nhạc Thiền Định và trong 90 ngày thực tập luôn luôn lập lại danh hiệu của Đức A Di Đà không cho gián đoạn. Về sau việc tin tưởng Đức A Di Đà càng mạnh hơn và có vai trò đáng kể trong tông phái nầy.

Ở tại Nhật luôn được lặp lại giống nhau như thế. Ngài Tối Trừng (762–822) vào năm 807 đã thành lập phái Thiên Thai sau một năm tu học tại Trung Hoa. Trong tư tưởng giáo lý của Tông nầy đã sắp đặt đón nhận một cách rộng rãi những giáo lý khác nhau và tìm cách để hội nhập vào và trải qua hằng trăm năm đã thừa nhận tín ngưỡng A Di Đà trong khuôn khổ to lớn hơn. Trong thế kỷ thứ 10 ý tưởng thời kỳ mạt pháp đã bắt đầu và chính đó, không khí tinh thần đã ngự trị. Như vậy con người đi tìm kiếm một con đường tương ưng để đến với sự Thánh thiện của Tôn Giáo hơn là bất thiện. Nội bộ của Tông Thiên Thai cũng đã ảnh hưởng rất lớn về vấn đề chính trị và việc thờ phượng A Di Đà đã trở thành một sự hành trì căn bản trong các tu viện. Nhiều chùa Tổng Bổn Sơn như Enryaku – ji ở núi Tỉ Duệ thuộc miền Đông Bắc kinh đô Kyoto đã đổi thành niềm tin vào Đức Phật A Di Đà và nhiều vị Tăng sĩ đã độc quyền cống hiến cho việc phức tạp nầy, đồng thời học thuộc lòng những nghi lễ để thích nghi theo lời thệ nguyện kia. Những sự tế lễ nầy cũng do tín đồ đóng góp từ giới quý tộc và để tránh khỏi việc bất thiện cũng như muốn bảo đảm cho việc vãng sanh về Tịnh Độ.

Trong khi trước đây cánh cửa đến với lời thệ nguyện của Đức A Di Đà chỉ được hé mở cho một phần nhỏ thì khoảng giữa thế kỷ thứ 10 cũng đã hiện hữu những vị Tăng sĩ và họ đã truyền đến cho người bình dân giáo lý của Đức A Di Đà về Tịnh Độ. Con đường ấy rõ ràng chỉ để giúp đỡ cho mọi người không phân biệt giàu có, giáo dục, hay địa vị để sanh về Tịnh Độ. Đặc biệt có thầy Kueya (903-972) rất nổi tiếng khi lữ hành qua khắp nước Nhật với việc niệm Phật tại các chợ, xây cầu, đào giếng và lúc nào cũng gần gũi con người.

Nền móng căn bản cho việc tiếp tục phát triển của Phật giáo Tịnh Độ tại Nhật qua tác phẩm “Vãng sanh yếu tập” của vị Tăng sĩ Genshin (942-1017) của Tông Thiên Thai. Genshin (Nguyên Tín) là một học giả, người đã tham cứu qua tất cả những truyền thống Phật Giáo khác đã thừa nhận tính đại chúng của niềm tin Tịnh Độ và đây là cơ hội để Ngài khảo sát về căn bản của giáo điều kia. Ở đó Ngài đã lặp lại giáo lý của Ngài Thiện Đạo, mà đây là lần dầu tiên ở Nhật được biết đến giáo lý ấy trong tác phẩm nầy. Vãng sanh yếu tập không những chỉ là giáo trình đại học mà còn chứa đựng sự mô tả sống động của sự sụp đổ trong sự tồn tại của con người ở vào thời mạt pháp; ở nhiều địa ngục khác nhau, con người bị rơi vào đó vì tội lỗithế giới Cực Lạc qua tha lực của Đức A Di Đà còn có thể được sanh về đó. Chất lượng văn chương kia và năng lực gợi cảm qua hình ảnh đã tạo thành tác phẩm nầy có ảnh hưởng vô cùng về phương diện văn hóa cũng như cách suy nghĩ thuở bấy giờ.

Genshin đã thừa nhận tư tưởng của Ngài Thiện Đạo qua việc niệm A Di Đà như là làm rõ con đường nhân từ tại Nhật Bản và đã tạo thành một giáo lý cơ bản. Với việc nầy Ngài đã góp phần lớn trong việc tế lễ tại Nhật Bản. Vì tính cách giản dị kia, chẳng bao lâu đã thành tựu to lớn có tánh cách đại chúngTịnh Độ Giáo đã trở thành điểm tựa vững chắc trong cuộc sống tôn giáo ấy. Tuy vậy Genshin vẫn trụ vững trong truyền thống của Tu Viện và với ông Thiền Định vẫn là lý do đầu tiên rõ ràng và việc tụng niệm chỉ là con đường thứ hai để đi đến sự Thánh Thiện. Ngoài ra theo Ngài nếu chỉ niệm danh hiệu của Đức A Di Đà thì không đủ mà các tín đồ còn phải dụng tâm vào đó sâu xa hơn nữa; hình ảnh của Đức Phậttrước mắt và chẳng có một ai làm suy yếu sự thực hành kia.

Sau một trăm năm niềm tin về Đức A Di Đà vẫn tiếp tục phát triển. Cửa chùa giao tiếp với tín đồ để cầu nguyện cho việc vãng sanh về Tinh Độ. Các Tăng sĩ Thiên Thai Tông, như Ngài Ryônin (1072 -1132) đã giảng pháp với sự thành công lớn lao cho Hoàng gia và cho cả dân chúng nữa. Những vị thần linh bản địa của đại chúng được đồng hóa và gần giống như sự tín ngưỡng của Đức Di Đà. Khi Ngài Pháp NhiênThân Loan ở vào cuối thế kỷ thứ 12 đã tiếp tục phát triển giáo lý của sự giải thoát qua Đức A Di Đà và đã trở thành độc tôn cho hướng tin tưởng ấy. Có thể các Ngài đã dựa vào làn sóng của Tôn Giáo đã tồn tại sẵn, mà tôn giáo ấy (niềm tin ấy) tất nhiên còn vắng mặt một tâm thành của sự sắp đặthệ thống và sự vững chắc; bởi vì lý thuyết về việc niệm danh hiệu Phật A Di Đà nó có giá trị như là một kỹ năng trợ lực duy nhất cho việc Thiền Định hoặc giả đó cũng là sự thực hành kém nhất cho những người với tự lực tinh thần còn giới hạn.

3.2 Hoàn cảnh lịch sử của sự phát triển dẫn đến chiều hướng một niềm tin độc lập

Những tài liệu được dịch trong quyển sách nầy tất cả đều xuất xứ từ thời 1175 cho đến năm 1289 (năm đầu là năm mà Pháp Nhiên lần đầu tiên thành lập Tịnh Độ Chân Tông, độc lập tại Nhật Bản và niên đại sau là năm Nhứt Biến mất; người sáng lập ra Thời Tông). Trong khoảng thời gian nầy chẳng phải chỉ riêng xuất hiện Tịnh Độ Tông như là một giáo phái độc lậpngoài ra còn các tông phái khác của Nhật Bản cũng đã được thành lập và ngôi nhà giáo lý ấy chẳng còn bị lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn gốc của Ấn Độ và Trung Hoa nữa. Đó là Pháp Hoa Tông và hai Tông của Thiền.

Sự phát sinh và thành quả của Tông phái mới, chỉ có thể hiểu được trước những lý do thầm kín của sự phát triển đoàn thể cho từng thời. Những tông nầy đã ảnh hưởng qua những sự khủng hoảng và sự sụp đổ hoàn toàn của thế lực chính trị của Hoàng gia tại Kyoto và kết quả ấy là sự thành lập chính quyền quân đội năm 1192 tại Kamakura đã biểu lộ sự thay đổi về cơ cấu xã hội, mà cơ cấu ấy đã được dọn sẵn đường giữa thời Heian (Bình An). Trong khi sự thanh nhàn và sự tinh luyện về văn hóa của Triều Đình còn là một điểm cao hướng về thì những việc làm cụ thể của những cơ quan tại các tỉnh lỵ càng ngày càng bị quân đội chi phối và việc nầy từ hạ tầng cơ sở và là tay chân bên cạnh của Triều Đình đã được huấn luyện. Nó được hình thành bởi cấu trúc của phong kiến với sự thống trị, qua sự trung thành cá nhân và sự quan tâm. Khi triều đình ít quan tâm đến sự thống trị về hành chánh ấy đối với cuộc sống tại các tỉnh; cho nên ảnh hưởng của quân đội lại càng mạnh hơn và cuối cùng tiến dần đến những ông quan đóng vai trò chính trị quan trọng. Sự tranh giành giữa Taira và Minamoto ở vào giữa thế kỷ thứ 12 đã bị ảnh hưởng; dẫn đến việc thành lập chính quyền quân nhân tại Kamakura. Đây chính là sự chiến đấu giữa hai phe đảng của tầng lớp mới. Trong khi Taira qua một thời gian dài thống trị vẫn còn chủ trương chế độ quan liêu công khai quan trọng và nhại theo văn hóa của Triều đình, thì Minamoto cuối cùng đã chiến thắng và tổ chức cho chính quyền mới ở Kamakura; trong ấy chẳng thân thiện với những tỉnh miền nam đang phát triển mạnh.

Cuộc cách mạng quần chúng nầy cũng đã mang nhiều ý nghĩa với cuộc sống Tôn Giáo qua việc đánh đổ lối sống cũ, sự biến dạng của chính trị và chiến tranh sai quấy đã còn dẫn đến nhiều nạn đói và bệnh dịch lan truyền, những việc trông thấy đó đã ảnh hưởng đến quyết định của con người. Tương ưng với tư tưởng về thời mạt pháp; thời gian sụp đổ đã bắt đầu, luôn là điểm có thể nhận rađồng thời việc ấy đã rõ ràng để cho giáo lý của các Tông phái Phật Giáo được thành lập, mà nhu cầu Tôn Giáo của thời ấy chẳng thể thực hiện được. Những Tông phái nầy với cách học thuộc lòng là những nghi lễliên hệ trực tiếp với kinh điển bằng chữ Hán và đường hướng theo đời sống của Tu Viện để dẫn đến con đường giải thoát cho nhiều người là không thể tiến tới được và khó hiểu. Ngoài ra các Tông phái cũng còn liên hệ chặt chẽ với những tầng lớp của Triều Đình cũng như bị mắc kẹt vào sự sai quấy của chính trị đương thời.

Những kẻ thống trị mới, tìm đến một hình thức tự chủ của văn hóađại diện của Tôn Giáo. Họ chẳng muốn tiếp tục đẩy mạnh truyền thống tu viện, Tông phái và nối kết chặt chẽ với những hình thức đại diện cũ. Ngoài ra nhóm mới nầy đã đẩy mạnh vấn đề thực tế và họ biết rõ việc nầy. Họ đã đạt được kết quả và tiếp thu việc hành chánh mà Triều Đình đã bỏ ngõ và dĩ nhiên họ dùng quyền lực bạo động để hạ địch thủ. Họ không tin tưởng nền văn hóa Triều đình thời Heian (Bình An) mà trong đó lễ nhạc thật phức tạp của những Tông phái đã cống hiến. Những kẻ thống trị mới cũng cai trị theo nguyện vọng và thể thức của Tôn Giáo, mà với họ đã ảnh hưởng bởi việc làm cũng như đời sống chiến tranh hội nhập. Đây chính là nền tảng để thành lập những Tông phái Phật Giáo mới vào thế kỷ thứ 13.

3.3 Pháp Nhiên – sự bắt đầu của Phật Giáo Tịnh Độ tại Nhật Bản

Vị Thầy Tôn Giáo đầu tiên thành lập Tông phái tự chủ Tịnh Độ Tông tại Nhật Bản là Ngài Nguyên Không (1133-1212) và thường được biết đến với danh hiệuPháp Nhiên. Căn cứ vào tác phẩm căn bản của Genshin (Nguyên Tín) và Thiện Đạo, Ngài đã đến với niềm tin niệm danh hiệu A Di Đà là cách duy nhất và là con đường chắc chắn để được vãng sanh. Sự thực tập phức tạp và những quy định đạo đức cứng nhắc đối với Ngài sẽ làm chướng ngại; bởi vì những tư tưởng nầy sẽ làm cho con người tin rằng điều ấy là họ có thể là tự lực để được chứng ngộ. Thế nhưng theo Ngài, thời mạt pháp đã bắt đầu; nên không thể thực hiện được. Cho nên Ngài đã dạy về “tuyển trạch niệm Phật”, tin tưởng vào sự nhiệt thành niệm Phật A Di Đà là sự định để sau cùng cho tất cả những lễ nghi và sự thực hành khác.

Pháp Nhiên xuất thân từ một gia đình quyền quý ở phía Tây Nhật Bản. Bởi vì cha ngài mất sớm; nên Ngài được mang vào chùa thuộc Tông phái Thiên Thai ở vào lứa tuổi 8 hay 9. Ở đó với trí thông minh ông đã học rất nhanh; nên lúc 12 tuổi ông đã được gởi vào chùa Enryaku-Ji là Tổng Bổn Sơn của phái nầy; nơi mà hai năm sau ông trở thành Tăng Sĩ và trong thời gian nầy ông đã nhận được pháp danhNguyên Không.

Chùa Enryaku-Ji tổng thể rất lớn, trong ấy có nhiều khuynh hướng khác nhau để phát triển về Tôn Giáo đồng thời tồn tại bên cạnh nhau. Ngài đã bị ảnh hưởng về sự suy đồi của Tôn Giáo như các Tông Phái truyền thống Thiên Thai, Hoa NghiêmChân Ngôn. Rất nhiều Tăng Sĩ của Tông Thiên Thai là những người quý tộc; họ đã trở về lại với triều đình; nhưng bây giờ họ ra khỏi tu viện để lèo lái chính trị. Với điều ấy họ đã có ảnh hưởngtài sản của Tông phái cũng được xử dụng như là chiến lược hợp lývị trí của chùa chính ở trên núi Tỉ Duệ thuộc miền Bắc của kinh đô; bởi vì dưới hình thức người lãnh đạo tinh thần họ ở lại Enryaku-Ji và cũng có một nhóm lớn tu sĩ chiến đấu với khí giới.

Bên cạnh đó vị trí của ngôi chùa cũng đã cố gắng để trở thành trung tâm tôn giáo uyên thâm suốt cả thế kỷ thứ 12. Điều ấy chẳng phải là một sự ngẫu nhiên mà nhiều Tôn Giáo mới đã xuất hiện giữa thời gian năm 1175 và 1300 bên cạnh Pháp NhiênThân Loan còn có cả Đạo Nguyên (1200–1253), người sáng lập ra Tào Động Tông tại Nhật Bản, cũng xuất thân từ tông Thiên Thai. Với giáo lý hỗn hợp ở trong hoàn cảnh đa dạng cho việc thực tập, với sự phong phú của văn học Phật Giáo của nhiều tông phái khác nhau; tuy vậy trên tất cả sự đa dạng đó phải có một nơi chốn tìm được con đường mới để hướng đến sự giải thoát. Mảnh đất của chùa trên núi Tỉ Duệ với những thung lũng và hang động; ở nơi đó trên thực tế những ai có niềm tin Tôn Giáo đều có thể tu tập, không bị cản trở cho việc nghiên cứu tu học và việc hành trì.

Ngay từ đầu Pháp Nhiên đã làm muốn có một cuộc sống như vậy để nghiên cứu về những tài liệu học Phật. Ngài đã sống thường xuyên tại Kurodani cho đến năm 1175; nơi đây là chỗ yên ổn trong già làm. Trong những năm sau đó Ngài đã thẩm định những nguồn tài liệu quan trọng của giáo điển để tìm ra một hệ thống giáo lý, nhằm đại diện cho Nhật Bản lúc bấy giờ. Vấn đề là làm thế nào cho con người ở vào thời mạt pháp; nơi Ngài đang sống còn có thể tìm ra được một con đường để đi đến chỗ Thánh thiện.

Những gì Ngài đọc qua, chẳng làm cho Ngài hài lòng. Như đã trình bày trước đây những giáo lý Phật Giáo theo truyền thống, cái gốc ấy có tính cách huyền bí, việc giải thoát dành riêng cho một số ít người, mà những ai đã thoát ra khỏi đời sống thế tục, có thể giữ giới luật chặt chẽ để thực hành những lễ nghi phức tạp. Mặc dầu Pháp Nhiên suốt cuộc đời đã trải qua những quy định ấy, có giá trị làm kim chỉ nam cho Tăng sĩ và tổng thể là một sự đòi hỏi chắc chắn đã được trưởng thành; nhưng Ngài vẫn cố tìm ra một con đường khác để đi đến chỗ Thánh thiệnmọi ngườithể đạt đến được.

Sau 20 năm nghiên cứu tìm tòi, cuối cùng qua những tác phẩm “Vãng Sanh Yếu Tập” của Genshin nói về giáo lý A Di Đà Tịnh Độđặc biệt ở đây Ngài đã quyết định dõi bước theo dấu chân của Ngài Thiện Đạo. Khi ấy Ngài đã đọc một đoạn trong việc bình luận về kinh Quán Vô Lượng Thọ. Và trong ấy cho rằng việc trì danh niệm Phật như là dấu hiệu của con đường đưa đến sự Thánh Thiện, mà con đường ấy riêng lẽ của Đức A Di Đà đã lựa chọn cho con người. Dĩ nhiên là Ngài Pháp Nhiên biết pháp môn niệm Phật đã có sẵn nơi quần chúng. Tuy nhiên theo những truyền thống có sẵn thì Tông phái riêng lẽ của Ngài chỉ có giá trị thực tập hay nói đúng hơn là một biện pháp tạm thời cho đại chúng bình dân, mà con đường đúng ra của Thiền Địnhkhổ hạnh chẳng có khả năng để đi. Những sách viết của Thiện Đạo bây giờ đã dẫn dắt Pháp Nhiên vào niềm tin. Điều ấy ngược lại với việc niệm danh hiệu A Di Đàcon đường đúng và con đường duy nhất dẫn đến sự Thánh thiện. Cộng thêm vào tư tưởng nầy, Ngài đã nắm bắt được ý tưởng của Thiện Đạo là sự thực tập niệm danh hiệu Phật A Di Đà chính là sự tự sáng chế và làm quà biếu cho con người. Pháp Nhiên suy diễn việc ấy là tất cả lễ nghi cũng như sự thực tập thực ra không cần thiết nữa. Ngoài ra chính Ngài suốt cả cuộc đời sống theo quy cách của một Tăng sĩ; nhưng đã không đòi hỏi cho những người khác như là một điều kiện để tiến đến sự giải thoát. Hơn thế nữa Ngài còn yêu cầu thực hành niệm Phật thật miên mật.

Với sự đánh giá mới về niệm Phật (Nembutsu) Pháp Nhiên đã mở ra một Tông phái độc lậpTông Tịnh Độ. Ngài đã rời Kurodani vào năm 1175 và đi đến gần kinh đô Kyoto để triển khai giáo lý mới của Ngài. Năm nầy nói chung được xem là năm thành lập Tịnh Độ Tông hay Tông Tịnh Độ. Đệ tử của Ngài dần tăng theo những năm sau đó. Giáo lý của Pháp Nhiên đã được giải thích lần đầu tiên về Phật Giáo ngay cả cho những người nghèo khó; những người không có học và cả đàn bà (mà theo Phật Giáo truyền thống luôn luôn bị coi rẽ) và chứng minh cho một con đường trực tiếp để đến nơi Thánh Thiện giải thoát. Những người như vậy quy tụ thành một nhóm lớn trong dân gian và ngay cả những Tăng sĩ không hài lòng từ những chùa khác và thành viên của Hoàng Tộc cũng có mặt nơi đó.

Pháp Nhiên đã tìm trong nhiều sách vở để làm rõ quan niệm của mình và căn cứ vào truyền thống để giải thích. Tác phẩm chính của Ngài là ‘Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật” và Ngài đã biên soạn vào năm 1198 với lời đề nghị lên Triều Đình Kujô no Kanezane. Tác phẩm nầy chứa đựng những đoạn văn trích dẫn từ ba Kinh Tịnh Độ và từ sự bình luận của Thiện Đạo cũng như của Đạo XướcPháp Nhiên đã tự giải thoát cho phần mình kèm theo đó. Với việc nầy chứng minh cho sự bỏ neo của tư tưởng của Ngài về giáo lý ấy cho phép. Tuy vậy Ngài cũng đã kêu gọi về sự quyết định của Đạo Xước giữa "con đường Thánh thiện (Thánh Đạo Môn)” và “cánh cửa Tịnh Độ (Tịnh Độ Môn)” rằng: mỗi giáo lý đều mang đến cho tín đồ một thành quả nhất địnhcuối cùng thì “con đường Thánh thiện” mà con người trong thời mạt pháp khó thể thực hiện được. Giáo lý truyền thống theo sự trình bày của Ngài chỉ thích hợp vào thời chánh pháptrong thời gian ấy chúng sanh không bị vô minh chi phối nhiều. Giáo lý ấy là cho con người, đã làm chủ tư tưởng tinh thần to lớn và có thể thực tập lành mạnh, vững chắc đối với những người ít học, bịnh hoạn, những kẻ yếu thì không có con đường để đi đến chốn Thánh thiện. Đối với họ chỉ có “con đường Tịnh Độ” mà con đường ấy họ không phải tự lực; mà qua lời thệ nguyện của Đức Di Đà sẽ mang họ đến sự giải thoát.

Những tác phẩm của Pháp Nhiên đã tạo sự lưu tâm to lớn cho những học giả Phật Giáo đương thời. Rồi vị Tăng Viện Trưởng nổi tiếng của chùa Eikandô thuộc Chân Ngôn Tông đã chính thức trao quyền trụ trì cho Ngài. Tuy vậy vẫn có sự phê phán về Tông Phái của Pháp Nhiên càng ngày càng nhiều thêm. Kể từ năm 1204 nhiều Tăng nhơn có quyền thế khác đã khiến cho Triều đình đạt lệnh cấm đoán giáo lý mới nầy. Họ biện luận rằng giáo lý độc quyền thực hành niệm Phật ấy bỏ rơi những vị Phật khác ngoại trừ Đức Phật A Di Đà và sẽ dẫn đến sự sa đọa về đạo đức. Pháp Nhiên nhắc nhở những tín đồ của Ngài là đừng khả nghi về những việc làm hoặc đừng bày tỏ sự xúc động. Tuy vậy có những sự kiện khác lại gây ra những ấn tượng không thiện cảm. Một buổi họp của các đệ tử lại, đặc biệt có nhiều phụ nữ đến tham dự hô hoán về những tin đồn thừa mứa. Đây chính là cái cớ để năm 1207 chính thức bị cấm về giáo lý niệm Phật. Pháp Nhiên và những đại để tử dưới trướng Ngài và ngay cả Thân Loan cũng bị tước quyền làm Tăng sĩ và bị lưu đày. Bốn đệ tử lớn có trách nhiệm được chọn ra trong cuộc họp nầy và họ đã bị khởi tố và bị kết án tử hình. Ngài Pháp Nhiên bị giam giữ ở chốn lưu đày cho đến tháng 11 năm 1211 Ngài mới được phép trở lại Thủ Đô (Kyoto) và Ngài đã viên tịch trong tháng giêng năm sau đó.

Hai tác phẩm của Ngài được xử dụng trong quyển nầy gồm: Một là quyển “Một tờ khởi tín văn” tờ nầy Ngài đã viết trước khi ra đi vài ngày. Tài liệu nầy rất giá trị cho Tịnh Độ giáo của Nhật Bản, sẽ được dịch ở phần đầu; bởi vì nó có những điểm chính của giáo lý nầy trong ít chữ.

Tác phẩm thứ hai của Ngài Pháp Nhiên được tuyển chọn để sưu tập. Tác phẩm ấy gọi là: “Đại ý ba bộ kinh”. Như tiêu đề đã đề cập, Pháp Nhiên một lần nữa giải thích về nội dung của 3 kinh Tinh Độ. Ở đó được hiểu rõ ràng hơn như Ngài đã ảnh hưởng rất nhiều về tín tâm qua cái nhìn uy tín của những tài liệu và Ngài đã đối xử với niềm tin như thế nào. Tác phẩm ấy không chỉ chú trọng đưa ra nội dung của các kinh, tuy vậy chỉ chọn một vài chỗ để làm dữ kiện thôi, mà còn để làm quen với lời dạy của Ngài Pháp Nhiên. Chủ đề chính mà Ngài muốn nói là sự tương quan của việc niệm Phật so với những pháp môn tu khác cũng như đối với truyền thống; mà vị trí của niềm tin Phật A Di Đà đối với Đức Thích Ca Mâu Ni; điều quan trọng là tin tưởng vào Đức Phật A Di Đà qua năng lực của danh hiệu A Di Đà Phật. Đồng thời bản văn cũng cho biết rằng tư tưởng của Ngài Pháp Nhiên chưa hoàn toàn tự giải thích rõ hết được của việc trì danhtin tưởng Đức Phật A Di Đà. Với Ngài thì tự lực và phong cách của tín đồ luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề giải thoát. Sự bất hòa ấy cũng đã cho thấy qua cuộc đời của Ngài Pháp Nhiên là Ngài đã ra lệnh cho tất cả Tăng sĩ và tín đồ (đệ tử) của Ngài được tự do; nhưng chính Ngài suốt cuộc đời lại sống hoàn toàn trong tu viện.

3.4 Thân Loan - việc hoàn thiện giáo lý mới

Học trò Ngài Pháp NhiênThân Loan đã bổ sung chỗ thiếu sót để hoàn thiện giáo lý mới mẻ ấy. Thân Loan (1173–1262) chắc chắn được kể là một con người mang đầy đủ ý nghĩa Tôn Giáo của lịch sử Nhật Bản. Ông ta nắm bắt tư tưởng căn bản của Pháp Nhiên rằng: trong thời đại mạt pháp việc giải thoát cho con người chỉ có đến từ bên ngoài mà qua tha lực lời thệ nguyện tổng quát của Đức Phật A Di Đà có thể đến được và đã thực hành một cách tuyệt đối; như vậy Ngài đã tạo một nền tảng căn bản cho tín đồ; trong ấy Ngài chẳng phân biệt giữa hai cách sống tăng và tục nữa: con đường giải thoát ấy được vạch ra cho tất cả mọi người; nếu họ chỉ cần tin nơi lời thệ nguyện của Đức A Di Đà mà thôi.

Thân Loan sinh vào năm 1173 gần Kyoto và xuất thân từ một gia đình liên hệ với dòng dõi Fujiwara và gần gũi với Triều Đình. Thuở ấy với lý do bất mãn giữa sự thống trị về chính trị đã khiến cho gia đình của Ngài lâm vào thời kỳ khó khăn và điều ấy đã dẫn tới việc Ngài đã bị gởi vào chùa Enryaku – Ji vào năm 1181, là Tổng Bổn Sơn của Tông Thiên Thai. Tại đó Ngài ít nhất cũng có 2 cách sống như một Tăng nhân ở chùa; nghĩa là những gì xảy ra bên cạnh sự nghiên cứu của Ngài về những kinh điển Phật Giáo với sự hướng dẫn bởi những nghi lễ phiền toái phức tạp. Một trong những nghi lễ ấy là Thiền định quán tưởng về Đức Phật A Di Đà kéo dài trong 90 ngày. Gồm có cả sự thay đổi trong đi, đứng, ngồi luôn luôn được lặp lại với danh hiệu Đức A Di Đà.

Như Pháp Nhiên trước đây, Thân Loan đã tận dụng thời gian nầy để tham khảo những sách vở của các tông phái khác tìm được ở Tu Viện của Thiên Thai. Trong lúc đó tình trạng bên ngoài núi Tỉ Duệ cũng chẳng thay đổi mấy như: luôn luôn thấy tại sân chùa Enryaku–Ji những mưu mô chính trị và tập trung nhiều lính tráng Tăng sĩ, mà cuộc sống của họ ít thực hành mục đích cao cả về Tôn Giáo.

Con đường niềm tin của Thân Loan rõ ràng đã sớm cho thấy cảm giác được ảnh hưởng bởi những tội lỗi không mất đi. Sự thực tập khổ hạnh và những lễ nghi mà Ngài đã trải qua đời sống của Tăng sĩ trong chùa chẳng còn thích hợp nữa, mà cảm giác nầy đã không bớt đi. Lại càng ít hơn Ngài có ý muốn tìm trong giáo lý truyền thống của Phật Giáo một con đường để giải thoát cho Ngài. Tự lực của Ngài đã chẳng làm cho Ngài đầy đủ, đặc biệt là qua cái nhìn chung quanh xảy ra trước mắt Ngài tại Enryaku-Ji quá rõ ràng để cho Ngài phán đoán. Vào năm 1201 một sự khủng hoảng đã đến và cuối cùng đã khiến cho Ngài phải tìm đến Ngài Pháp Nhiên để làm học trò.

Thân Loan luôn luôn nhấn mạnh về sau đó rằng ông ta nhận được niềm tin từ Ngài Pháp Nhiêngiáo lý của Ngài chính là quan điểm của Thầy mình được trao truyền lại. Trong vòng 6 năm sau đó, cho đến khi việc niệm Phật bị cấm vào năm 1207, Ngài sống gần với Ngài Pháp Nhiên, học hỏi những kinh điển về Tịnh Độ Tông và nhận được sự truyền thừa của Thầy mình.

Năm 1024 theo mệnh lệnh của Pháp Nhiên, ông ta lập gia đình để chứng tỏ rằng: lời nguyện của Đức Di Đà không phân biệt giữa Tăng nhơn và tín đồ. Nơi đây không rõ nhân việc ấy đã có ý sẵn hoàn tục và qua lời của Sư Phụ của Ngài đã hợp pháp hóa. Điều chắc chắn rằng từ năm 1207 Thân Loan sau khi bị cấm giáo lý niệm Phật ông đã bị đày đi đến giam tại Echigo (thuộc vùng Tây Bắc); sau khi kết hôn ông ta sống tại đó với vợ và các con. Dẫu sao đi nữa thì đây là sự tuyên truyền công khai về việc kết hôn và đời sống thế tục như là một hình thức đồng đẳng với đời sống tôn giáo rõ ràng qua sự tách biệt với truyền thống. Tuy rằng việc nầy trong lời dạy của Pháp Nhiên; nhưng Thân Loan là vị giáo tổ đầu tiên của Phật Giáo, mà thực hành niềm tin tưởng tuyệt đối của Đức Di Đà mà chính Ngài đã từ chối cuộc đời của một Tăng nhân.

Kể từ đó trở đi Ngài tự gọi là “ngu ngốc Thân Loan” nó có nghĩa là: "kẻ đầu trọc Thân Loan chẳng biết gì". Với cách gọi nầy Ngài đã đóng một vị trí quan trọng và Ngài đã có lần viết: “chẳng phải Tăng nhơn, chẳng phải tín đồ”. Trên nguyên tắc kể từ khi Ngài bị đày trong bất kỳ trường hợp nào Ngài cũng là một tín đồ bị đày và không còn được đối xử như một Tăng nhơn nữa. Ngoài ra gia đình của vợ Ngài còn làm chủ đất đai; cho nên cuộc đời của Ngài chẳng còn phải lo lắng nhiều về vấn đề tài chánh nữa. Tuy nhiên Ngài bây giờ hình như phải bận tâm hơn với những vấn đề thường nhật xảy ra hơn là lúc sống với Ngài Pháp Nhiên.

Vào cuối năm 1211 Ngài được phép trở lại Tokyo nhưng Ngài quyết định không trở về thủ đô. Điều có thể đoán là việc quá vãng của Thầy ông, Ngài Pháp Nhiên đã tạo nên một vai trò quan trọng. Thân Loan đến sống ở vùng Kantô; nơi mà Ngài sẽ sống gần 20 năm tại đó. Giờ đây Ngài thường hay sống ở Inada (Tỉnh Hitachi; ngày nay thuộc quận Ibaraki) trong một hoàn cảnh đơn giản và đã tập trung được một lượng đệ tử lớn lao.

Ở tại Inada, Ngài đã thực sự bắt đầu hoàn thành tác phẩm chính của Ngài là: Giáo, Hạnh, Tín, Chứng. Đặt nền móng vững chắc cho giáo lý của Ngài với việc trích dẫn từ những tác phẩm chính của truyền thống Tịnh Độ, mà đây chính là tư tưởng hướng đạo của Ngài. Ngài lập nên bảy vị Tổ của Tịnh Độ giáo như các Ngài: Long Thọ, Thế Thân, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Genshin (Nguyên Tín) và Pháp Nhiên. Về phần những vị Tổ đã đóng góp cho giáo lý ấy mà Thân Loan, đã thấy được qua sự hướng dẫn về: “Chánh tín niệm Phật kệ” là một phần nổi tiếng của tác phẩm nầy.

Phần bao gồm để trích đoạn những nguồn tài liệu nơi tác phẩm chính của Thân Loan là một tác phẩm để làm mới lớn mạnh hơn. Thân Loan đã thành lập giáo nghĩa chỉ riêng cho việc vãng sanh bằng tha lực của Đức Phật A Di Đà trợ giúp. Chính sự quay về với niềm tin Đức A Di Đà; điều kiện ấy sẽ được giải thoát mà còn phải thâm tạ về sự trợ lực của chư Phật nữa. Kết quả cuối cùng là được trích ra từ tư tưởng của Pháp Nhiên: khi mà con ngườithời kỳ mạt pháp chẳng có thể làm việc thiện được nữa, thì chính họ cũng chẳng thể dùng tự lực như là một sự tin tưởng đứng đắn được. Và khi ảnh hưởng lời thệ nguyện của Đức Di Đà vô cùng tận thì chẳng có một sự cần yếu nào để chứng minh cho sự lặp lại việc trì danh nữa, và xem đó là việc tích tụ phước cũng không cần phải thực hiện nữa. Sự phô diễn của câu Phật hiệu chỉ để chứng tỏ cho mọi người giữa Đức A Di Đà và những tín đồ. Sự lặp đi lặp lại của việc tụng niệm, Ngài Thân Loan không chối bỏ; nhưng với ông, chỉ còn là một chức năng để chứng minh cho sự cảm ân về lời thệ nguyện của Đức A Di Đà.

Sau 20 năm ở Kantô, không biết vì lý do tại sao mà Thân Loan trở lại Kyoto từ năm 1235. Nơi mà cuối đời Ngài ra đi tại đó. Ngài sống tại đó ở nhiều địa điểm khác nhau và dựa vào việc cúng dường của tín đồ từ những đệ tử của Ngài ở tại Inada để sinh sống, mà những người nầy cũng thường hay thăm viếng Ngài. Từ thuở ấy thường xuất hiện nhiều tài liệu nổi tiếng. Có lẽ sau khi trở lại Kyoto, Ngài mới có được điều kiện nghiên cứu những tư liệu Phật Giáo và có thể viết dễ dàng hơn. Tác phẩm của Ngài chẳng phải chỉ là một loại bác học; một phần cốt yếu cũng kết nối với văn tự và thư từ; mà trong đó còn nhằm giải thích về giáo lý qua lời nguyện của Đức Phật A Di Đà cho những tín đồ bình dân và ít học, và Thân Loan đã tránh dùng hoặc viết những thuật ngữ khó hiểu: “Duy Tín sao văn ý” trong đó Thân Loan đã giải thích về những quan niệm quan trọng của giáo lý Tịnh Độ giáo bằng một ngôn ngữ giản dị. Tác phẩm nầy được tuyển dịch trước phần Giáo, Hạnh, Tín, Chứng; bởi vì nó là những thuật ngữ và cũng là tư tưởng chỉ đạo của giáo lý Thân Loan hướng dẫn từng chữ một để hiểu một cách dễ dàng.

Những năm tháng cuối đời của Thân Loan cũng đã trải qua nhiều sóng gió. Vào năm 1250 có những vấn đề của nhóm ở Kantô mà nhóm nầy đã bị đàn áp mạnh ngoài dự tưởng. Thân Loan đã sai con của mình là Zenran (Thiện Loan) đến nơi để giải thích; nhưng người con xử dụng địa vị của mình để lạm quyền mà điều nầy trái với giáo lý của Thân Loan và nhảy qua phía bên kia gây ra áp lực. Thân Loan đành phải xa cách con của mình.

Ngài cũng đã tiếp tục hoàn thành những công việc về văn học chẳng mỏi mệt cho đến khi Ngài quá vãng, dầu sau sự kiện nầy đã xảy ra. Ngài mất vào năm 1262 tại Kyoto ở tuổi 89.

Với sự ngộ nhậnhiểu lầm đã thường xuyên chạm đến giáo lý của Ngài như trong Thán Dị Sao là bằng chứng; việc nầy xảy ra sau khi Thân Loan mất và việc nầy cũng đã được ghi vào trong sách nầy. Điều ấy cho thấy rằng, không đơn giản để hiểu giáo lý của Thân Loan lúc nào cũng có tư tưởng nhập vào việc tự lập công đức của tín đồcần thiết; hoặc giả theo lời thệ nguyện của Đức Di Đà để bào chữa cho những lỗi lầm thái quá.

Đúng vào thời điểm của Thân Loan quá vãng đã có sẵn một nhóm đệ tử chuẩn bị sẵn sàng thực hiện “Tịnh Độ Chân Tông”, tách ra khỏi với vị sáng lậpPháp Nhiên của Tịnh Độ Tông vì nhiều điểm khác biệt. Kể từ đó càng ngày càng xa rời với tông phái chính được thành lập của Pháp Nhiên để thích hợp với Thân Loan. Cả hai tông nầy dẫu sao đi nữa vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và có số tín đồ nhiều nhất ở Nhật Bản.

3.5 Nhứt Biến – sự lãnh hội của niềm tin của quần chúng

Tông phái thứ 3 nổi tiếng về Tịnh Độ Di Đà của Phật GiáoNhật Bản đã được Nhứt Biến (1239–1289) thành lập. Đối với Nhứt Biến việc nhấn mạnh về niềm tin như được thấy ở Thân Loan, còn tồn tại lại tư tưởng của việc giải thoát qua công đức của chính mình. Những câu hỏi qua sự tương quan giữa niềm tinNiệm Phật đã được hướng dẫn thảo luận về Tịnh Độ Tông rất rắc rối. Nhứt Biến đã dạy cho tín đồ của Ngài rằng chỉ niệm Phật, không suy nghĩ tiếp tục, như được đến trong trạng thái giải thoát; bởi vì đây là do hoàn toàn nơi tha lực của Đức Di Đà qua sự niệm Phật. Tông phái của Ngài là Thời Tông; bởi vì người ta tụng đọc việc niệm Phật được chia ra ngày giờ nhất định. Một phần được đại chúng hóatín đồ được an lạc về sự giải thoát chắc chắn qua sự niệm Phật bằng cách múa.

Nhứt Biến xuất thân từ một gia đình tướng quân ở Tứ Quốc và Ngài đã trở thành Tăng Nhơn lúc 10 tuổi sau khi mất mẹ. Hai năm sau đó Ngài đến Cửu Châu học giáo lý của Tịnh Độ. Sau đó Ngài trở lại quê hương mình và vào năm 1263 thì mất cha và những năm sau đó Ngài sống với những người trong thân tộc. Năm 1271 bất thình lình Ngài từ giã quê nhà và từ đó sống như là một Tăng sĩ hành cước và người tu khổ hạnh. Ngài đã tỏ rõ về niềm tin được quyết định vào vài năm sau đó. Cái nhìn căn bản của Nhất Biến là sự giác ngộ của tất cả chúng sanh qua lời thệ nguyện của Đức A Di Đà được trợ giúp trong thời gian vô tận. Từ đó mọi người tin tưởng vào lời nguyện kia và sẵn sàng giải thoát. Trong lời nguyện của Đức Phật A Di Đà không có sự phân biệt về thời gian; cho nên những tín đồ không cần phải chờ đợi lúc chết mới được sanh về Tịnh Độđược giải thoát.

Một điểm căn bản quan trọng tiếp theo của giáo lý Nhứt Biến là tất cả niềm tin vào Phật lực của Đức Phật A Di Đà đã chứa đựng sẵn nơi câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật khi xưng danh có sự liên hệ với tên của Ngài. Nhất Biến đã phát tán những tờ giấy có danh hiệu Phật A Di Đà đến cho quần chúng về niềm tin và tin rằng qua đó sẽ được trợ lực để được giải thoát. Người ta thấy rằng việc nầy như ảo thuật để đi vào giáo lý của Ngài. Một điểm khác tiếp theovai trò của sự nhảy múa trần truồng. Nhứt Biến đã trưng dụng được nhiều người và Ngài đã nhảy múa trên đường phố hoặc chợ búa để vang lên lời niệm Phật. Cả tín đồ của Ngài cũng ủng hộ cho việc “múa hát niệm Phật” nầy và về sau Thời Tông đã lấy đây làm nghi lễ. Qua sự thâu nhận những thực tập nầy phát khởi từ niềm tin quần chúng; Nhứt Biến đã thành công, chẳng phải chỉ một đám đông to lớn ấy của học trò Ngài tụ tập lại, mà họ đã cùng ông đi khắp cả nước; đồng thời cũng có nhiều tín đồ được thuyết phục, và những tên tuổi của họ Ngài đã ghi chung vào một dãy. Sau khi nhóm của Ngài bị tướng quân tại Kamakura xua đuổi vào năm 1282 thì Nhứt Biến đã dời về Kyoto với họ; nơi ấy ông tìm một sự đồng thuận chính thức. Từ thuở ấy cũng đã xuất hiện 9 bức thư và trong sách nầy cũng đã được dịch ra. Nó chứa đựng những quan điểm khác nhau của tín đồ và làm rõ tư tưởng của Nhứt Biến trong vài điểm chính, được nối tiếp bởi di chúc ấy Ngài đã trực tiếp truyền trao lại từ trước khi Ngài quá vãng vào năm 1289. Chỉ còn lại một vài chữ làm căn bản cho sự giải thoát không có gì khác hơn Phật hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9936)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9917)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20496)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10328)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9938)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10326)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9919)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34387)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9609)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8706)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9273)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11074)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8513)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9785)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9168)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20409)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19178)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8709)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8845)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12082)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9583)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22984)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8983)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9250)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9956)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9874)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10584)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10910)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12457)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9318)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9167)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9295)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10442)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16593)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9516)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10145)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8375)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8277)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9432)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8827)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8613)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12255)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9121)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9596)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8599)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9433)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8599)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8340)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8443)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10163)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23600)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9557)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9366)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8987)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8325)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8505)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7860)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7955)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8773)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8900)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10044)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8634)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8607)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30377)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30034)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24136)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9246)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9614)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9496)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9486)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7839)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9051)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28171)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23662)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8861)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14090)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9642)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9323)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9626)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30857)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27096)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32670)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33975)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27725)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10562)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58620)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10638)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9378)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9534)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13927)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14193)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10754)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28106)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23256)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant