Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

11 Tháng Mười 201507:41(Xem: 9348)
Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

NHỮNG PHƯƠNG TIỆN NỘI TẠI CỦA THIỀN

Tuệ Thiện

 

Những Phương Tiện Nội Tại Của ThiềnHãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trốngngồi kiết già lưng thẳng, vị tỳ kheo an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệmquán Thân trên thân, quán Thọ trên các cảm thọ, quán Tâm trên tâm, quán Pháp trên pháp » trong bài kinh Niệm Xứ (Sattipatthana sutta) đức Phậtgiải thích thế nào là THẦN, THỌ, TÂM, PHÁP và Đức Phật nhấn mạnh nhiều lần « Vị tỳ kheo khi ấy an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời ».

Đồng thời Ngài lập đi lập lại : « Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân ; hay sống quán thân trên ngoại thân ; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. »

Rồi đức Phật cũng lập lại y như vậy cho THỌ, TÂM, PHÁP.

(Kinh Niệm xứ, TRUNG BỘ KINH,10)

NHẬN XÉT :

  1. Điều kiện bền ngoài: Khung cảnh yên tịnh.
  2. Những phương tiện bên trong: nhiệt tâm (tinh tấn cố gắng), tỉnh giác (sáng suốt), chánh niệm (chú tâm).
  3. Những đối tượng để chú tâm quan sát: THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
  4. Mục đích giải trừ phiền não : tham, sân, si
  5. Đem áp dụng thiền vào cuộc sống (sống thiền)

Trong định nghĩa trên, quan trọng nhất là những yếu tố nội tại : nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm.

  1. 1.    Nhiệt tâm là động lực, năng lực, sự cố gắng ( l'énergie, l'effort )
  • sự cố gắng ở bên ngoài khiến chúng ta thu xếp thời giờ để có thời gian hành đạo, khiến chúng ta 5-6 giờ sáng lồm cồm thức giấc, đặt mình trong tư thế thiền, trong khi những người khác đang triền miên trong giấc điệp; nó cũng khiến chúng ta đều đặn liên tục không bỏ dỡ con đường tu tập.
  • Sự cố gắng ở bên trong là nổ lực duy trì sự chú tâm, giác tỉnh trên đề mục, không lơ đểnh phóng tâm, nó gìn giữ một mức độ năng lượng (degré énergétique) cần thiết để tâm có thể duy trì liên tục trên đề mục. Khi chúng ta bị mệt mõi tinh thần, sự chú tâm sẽ yếu kém, chúng ta trở nên lơ đễnh, hay quên, không tập trung tinh thần được. Một người bị bịnh thần kinh suy nhược (dépression nerveuse) thiếu mất hoàn toàn chức năng nầy nơi tâm.

      Để dễ hiểu chúng ta lấy một ví dụ : một người đang đọc sách trước khi ngủ, anh cảm thấy bắt đầu buồn ngủ, chữ nghĩa bắt đầu nhảy múa trước mắt, đọc câu sau quên câu trước ; nhưng vì cái chương nầy trong sách quá hấp dẫn, anh muốn đọc cho hết, lúc đó anh phải tăng cường sự cố gắng ở trong tâm để đọc cho hết chương. Đó chính là sự nhiệt tâm, nó rất cần thiết cho thiền.

  1. 2.    Niệm :

Tiếng Pali là Sati, tiếng Pháp là attention. Niệm là ý thức, nhận biết, nắm bắt một đối tượng khi nó lọt vào 6 cửa là mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đó là 5 giác quan giúp con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa ý để mở vào thế giới bên trong, giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở 3 thời quá khứ, hiện tại, tương lai và cả những ý niệm trừu tượng như Tánh Không chẳng hạn. Đây là giác quan thứ 6 của PG, một chức năng quan trọng của Tâm, mà thiền cố gắng luyện tập và cải thiện.

      Để dễ hiểu hơn lấy một ví dụ : chúng ta đang ngồi chung quanh một bàn tròn trong một tiệc cưới, khung cảnh thật là ồn ào, náo nhiệt : người nầy nói, người kia cười. Nếu chúng ta muốn nghe được, hiểu được câu chuyện của người ngồi bên kia bàn, chúng ta phải hướng sự chú tâm, tập trung tư tưởng về phía người ấy. Thỉnh thoảng nếu chúng ta lơ đễnh hoặc đễ tâm đến việc khác, câu chuyện bị đứt khoản. Muốn cho sự chú tâm được liên tục, tâm phải giữ một mức độ năng lực nhất định.

      Chú tâm hay Niệm giữ một vai trò rất quan trọng trong thiền. Không có Niệm không có thiền.

  1. 3.    Giác tỉnh (vigilance, claire compréhension)

Là sự hiểu biết rõ ràng, sáng suốt, là trạng thái tâm tỉnh thức, tỉnh táo, trong suốt như dòng nước chảy qua các khe đá  hay như một bầu trời trong sáng không một áng mây khiến ta có thể nhìn đến tận những vì sao xa thẳm. Tỉnh giác luôn luôn đi chung với Chánh niệm.  Nó làm nền, làm khung cảnh cho Chánh niệm làm việc. Không có nó, Niệm sẽ làm việc trong vô minh, mờ ảo. Trong y học người ta khảo sát những mức độ tỉnh thức đi từ bình thường tới Hôn mê, người ta phân biệt 4 trạng thái: chênh choáng, lú lẫn, mê đờ, hôn mê (obnubilation, confusion, stupeur,coma).

Trong khoa học Trầm Niệm, người ta phân biệt những trạng thái từ sự Thụy Miên đến Hôn Trầm  đến Tỉnh Giác bình thường , đến Tỉnh Giác đi chung Khinh An, rồi tới Tỉnh Giác phối hợp với Định và sau cùng Tỉnh Giác phối hợp với Định và Xả. 

Sự giác tỉnh có 4 dạng thái, gắn liền với Niệm từ đầu cho đến cuối buổi thiền tập, hay trong trọn khoá thiền tích cực, trừ lúc ngủ, cho dù ta ở tư thế nào trong 4 tư thế : đi, đứng, ngồi, nằm hay trong bất cứ sinh hoạt nào ăn, uống, nghỉ ngơi, làm vườn, quét dọn…

  1. Giác tỉnh về mục đích (Satthaka Sampajanna) làm việc gì cũng phải có mục đích. Một người không có mục đích hay hành động mà không biết rõ mục đích là người sống trong vô minh. Đời sống con người thật ra không ngoài hai mục đích chính yếu : thoả mãn những nhu cầu và những gì mình ham muốn hoặc chửa trị những gì mình đang đau đớn, khổ sở ; ngoài đó ra là thái độ chịu đựng, lẫn tránh cuộc đời. Như những người ở cuối cuộc đời, người bịnh trầm cảm họ không còn mục đích trong cuộc sống. Như có 1 bà cụ sống trên 100 tuổi mỗi lần nghe có 1 bạn già qua đời bà mừng cho người ấy và than rằng “ trời ơi Chúa quên tôi rồi, sao để tôi sống mãi thế nầy “.

      PG đưa ra giải pháp chửa trị cả hai vừa tham muốn vừa đau khổ bằng phương pháp thiền định. Mục đích của THIỀN rõ ràng là để thiêu đốt phiền não, tiêu diệt THAM, SÂN, SI, là 3 hình thái của sự đau Khổ.

  1. Giác tỉnh về những phương tiện thích hợp, thích nghi đúng thì (Sappaya Sampajanna)

Thông minh là gì ? nếu không phải là biết đúng phương cách, xử dụng đúng phương tiện để thực hiện mục đích.

      Trong đời sống chúng ta bị lệ thuộc bởi nhiều điều kiện : thời gian, không gian, phương tiện… Trong thiền cũng vậy : có những điều kiện về trú xứ (nơi thanh tịnh, vắng vẻ) về vật thực (thức ăn vừa đủ, nhẹ nhàng không kích thích, không làm buồn ngủ), về người hướng dẫn : có pháp học, có kinh nghiệm, có giới đức…v.v. Phải sáng suốt thích ứng với các điều kiện trong khả năng có thể làm được, biết khéo léo chọn lựa những phương tiện thích hợp, đúng lúc.

      Nhờ sự giác tỉnh nầy chúng ta mới hoàn thành được mục đích.

  1. Giác tỉnh về phạm vi của thiền (gocara Sampajanna) : các nhà chú giải xưa giải thích đó là « sự không bỏ quên đề mục thiền trong đời sống thường nhật » Theo đại đức Nyanaponika, trong quyển «cốt lõi của thiền PG» (le cœur de la méditation bouddhiste. Edition J. Maisonneuve), điều nầy có thể được hiểu bằng hai cách :

Nếu chúng ta thực hành một đề mục thiền đặc biệt, (như quán tưởng về tính cách bất tịnh của vật thực), chúng ta ráng pha trộn nó với những công việc hoặc ý nghĩ đòi hỏi bởi sinh hoạt đang có. Chẳng hạn trong khi ăn uống, vừa ăn vừa quán tưởng. Như vậy 2 phạm vi thiền tậpđời sống pha trộn lẫn nhau. Nếu giữa sinh hoạt đời sống và đề tài thiền tập không thể trộn lẫn được, thì chúng ta tạm rời bỏ đề mục thiền để sẽ lấy lại nó sau khi công việc đã xong.

      Bằng cách đó có thể được kể như là không bỏ quên đề mục thiền.

      Nếu chúng ta thực hành Chánh Niệm, Tỉnh Giác như được hướng dẫn trong thiền Quán (hay thiền Minh Sát) thì không cần phải gác lại đề mục thiền vì phạm vi thiền quán bao trùm mọi sinh hoạt của đời sống, gồm mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Chúng ta thiền trong cuộc sống hay nói một cách khác  là sống trong thiền.

      Sự thành công của hành giả đòi hỏi sự vận dụng giác tỉnh đã luyện tập được vào những hoàn cảnh đặc biệt của đời sống. Như vậy giữa thiền tậpđời sống không tách biệt nhau. Hành giả đang sống thiền. Giác tỉnh về phạm vi của thiền có thể được hiểu là biết rõ ràng lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và lúc nào đã xuất thiền ; hay lúc nào có chánh niệm, lúc nào thiếu chánh niệm.

  1. Giác tỉnh về thực tại không ảo kiến (asammoha sampajanna) cho đến một mức độ khách quan nào đó sẽ dần dần được phát triển trong thiền tập, khi quan sát ta luôn luôn nhìn dưới lăng kính ít nhiều ngã chấp hoặc với nhãn quan tình cảm, vì tất cả mọi sinh hoạt đều bắt nguồn từ tôi : tôi thấy, tôi nghe, tôi hiểu, tôi cảm nhận…

Cái ảo kiến chấp ngã nầy đã tập nhiễm thâm sâu cùng tận trong con người. Chỉ có khi nào với sự luyện tập lâu dài bền vững, quan sát tới quan sát lui những hiện tượng ở trong thân và ở trong tâm (ngủ uẩn) và thấy rằng chúng chỉ là những diễn trình vô ngã, lúc đó ta mới dần dần bẻ gảy và loại bỏ cái quan kiến duy ngã tự kỷ trên.

Chúng ta hãy nghe nhà tâm lý học William James, cha đẻ của ngành tâm lý học hiện đại Mỹ, tự thuật về sự nội quán của ông : « riêng về phần tôi, khi thâm nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là « Tôi » thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái “tôi” ngoài những cảm giác ấy và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác...”(William James, Principales of Psychology trang 351)

Nhà khoa học khi quan sát với thái độ khách quan sẽ giống với một thiền gia quan sát với tâm vô ngã. Hai vị đã cùng xử dụng sự giác tỉnh về thực tại không ảo kiến.

Trong Thiền còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng : đó là Quán hay Quan sát.

  1. 4.    Quán : (observation - quan sát)

      Ngày nay Thiền đã đi vào lãnh vực của khoa học, một nền khoa học mới được gọi là khoa học trầm niệm (science contemplative), trong đó sự quan sát cũng vẫn là phương tiện chánh yếu đầu tiên.Trong khoa học tự nhiên người ta quan sát một sự vật, một hiện tượngthế giới bên ngoài bằng 5 giác quan, nhất là bằng mắt và tai với sự trợ giúp của các dụng cụ như kính-hiển-vi, kính-viển-vọng, hoặc máy chụp hình, chụp quang tuyến… Trong khi các thiền gia quan sát các hiện tượng thuộc thế giới bên trong và bằng ý thứcgiác quan thứ 6 của PG. Dĩ nhiên có rất nhiều trở ngại trong phương cách nầy và kết quả tìm thấy không ai giống ai, vì mỗi người có sự cố gắng, một hiểu biết hay phương pháp khác nhau. Ngay cả những người thực hành cùng một phương pháp, kết quả cũng không giống nhau vì còn tuỳ thuộc nhiều điều kiện nữa.

  • Trước hết phải có một sự quyết tâm sắt đá như Đức Phật và chư vị Bồ Tát (Đức Phật dưới cội bồ đề)
  • Phải có lòng tin nơi phương pháp mình đang thực hành, phương pháp phải đem đến một kết quả gì giống như kết quả của những người đi trước, phải đem đến những hiểu biết hay những kinh nghiệm nào.
  • Phải đem đến sự nhạy bén của tâm, sự hiệu nghiệm của quán niệm (observation attentive) như thế nào?
  • Phải đem đến một trạng thái định tỉnh, buông xả của tâm ra sao?
  • Phải đem đến những khám phá gì về thân tâm nầy?

NHỮNG ĐỐI TƯỢNG QUAN SÁT

Khi nói Quán, phải biết quán cái chi ? Đức Phật trong hầu hết những bài thuyết giảng của Ngài đều nói đến Tứ Niệm Xứ : là bốn đối tượng đễ quan sát. Bốn đối tượng nầy bao trùm tất cả những sinh hoạt vật thể, tinh thầntâm linh con người.

          1/ Thân : tất cả những yếu tố thuộc về thân mà con người có thể ghi nhận được nhờ những thụ thể (récepteur) thần kinh ở trong da, thịt, gân, xương, khớp cốt, nội tạng. Nói chung những yếu tố nầy là tổng hợp của Đất, Nước, Lửa, Gió ghi nhận được qua xúc giác.

          Trong khi thực hành chúng ta chỉ chú tâm đến sự phồng lên, xẹp xuống của bụng hoặc của sự xúc chạm của hơi thở ra vào ở mũi hoặc cảm giác toàn thân qua các tư thế đi, đứng, ngồi, nằm.

          Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật có nói đến « quán thân trong thân, bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là khi quan sát thân, chúng ta chỉ nên biết những gì thuộc về thân : những đặc tính của chúng, sự vận hành của chúng, không nên lầm lẫn với những đối tượng khác.

          « Bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là nhìn từ bên trong (chủ quan) và nhìn từ bên ngoài (khách quan). Ví dụ khi bị chóng mặt, nếu quan sát từ bên trong thì nó rõ ràng là thân mình bị quay cuồng, nhưng nếu quan sát từ bên ngoài thì thân mình chỉ nằm một chỗ trên giường chớ đâu có động đậy gì đâu ! Quan sát như thế chúng ta mới biết đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng và sẽ không còn sợ hãi khi bị chóng mặt.

          2/ Thọ : là những yếu tố thuộc cảm giác, tình cảm và cảm xúc. Cảm giác thì có : nóng, lạnh/ cứng, mềm/ chuyển động, bất động. Nếu chúng dễ chịu thì làm ta vui thích, nếu chúng khó chịu thì làm ta ghét bỏ, cảm giác trung tính thì làm ta dửng dưng.Những cảm giác trung tính có thể dễ chịu đối với kẻ thiện trí  nhưng khó chịu đối với kẻ phàm phu (Majjhima Nikaya 44, Culavedalla sutta). Ngoài ra ta còn có những cảm xúc như vui buồn, tức giận, sợ hãi, lo âu…

Thọ có thể thuộc về thân như đau đớn, khoái cảm hoặc thuộc về tâm như vui sướng, khổ sở và an xả.

          3/ Tâm : là những trạng thái của tâm. Theo kinh điển có tất cả 16 trạng thái diễn tả tâm trạng con người trong mọi hoàn cảnh sống của nó :

          - Tâm tham / Tâm không tham.

          - Tâm sân / Tâm không sân.

          - Tâm si / Tâm không si.

          - Tâm hôn trầm / Tâm trạo hối.

          - Tâm phát triển (do thiền) / Tâm không phát triển (do không thiền).

          - Tâm hữu hạn (dục giới) / Tâm vô thượng (sắc giới hoặc vô sắc giới).

          - Tâm định / Tâm không định.

          - Tâm giải thoát / Tâm không giải thoát.

Chúng ta thấy có những loại tâm do tu tập thiền mới có được hoặc do chứng đắc như tâm vô thượng, tâm địnhtâm giải thoát.

          4/ Pháp : là những đối tượng của tâm, tất cả những gì tâm có thể ghi nhận, hay biết được qua 6 cửa trong đời sống bình thường, lúc tu tập cũng như khi chứng đắc. Theo kinh điển, Pháp được chia làm 5 nhóm :

* Nhóm 5 chướng ngại : tham, sân, hôn trầm, trạo cử (phóng đãng), hoài nghi.

* Nhóm 12 xứ :

          - 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

          - 6 trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

* Nhóm 7 yếu tố trợ giúp cho sự giác ngộ (thất giác chi) : Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỉ, An, Định, Xả.

* Nhóm Tứ Diệu Đế : Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

          Pháp như một bảng tổng kết (récapitulatif), thống kê tất cả những đối tượng của tâm.

          Trong tất cả những đối tượng trên, Đức Phật đã chọn đề mục THÂN làm đối tượng chánh, đại diện bởi hơi thở hoặc tư thế, bởi vì chúng dễ được ghi nhận, nắm bắt. Đối tượng chánh nầy là sợi dây nối kết liên tục sự quán niệm để mỗi khi thất niệm, chúng ta biết chỗ nào để trở về.

 

          Đây là phương phápphương tiện do chính Đức Phật giảng dạy, còn ghi chép rõ ràng trong kinh điển, còn được lưu truyền đến ngày nay.

          Muốn tiến bộ phải có sự liên tục trong PHÁP HỌC và PHÁP HÀNH theo một chìêu hướng nhất quán (cohérent) và lập đi, lập lại bởi vì con người dễ duôi hay quên, cho đến khi nào ta khám phá Phật tính ở trong ta và trở thành TAM THÂN như Đức Phật :

          - Pháp thân : là sự thông hiểu những định luật phổ quát của vũ trụ.

          - Báo thân : là cái thể vật chấttinh thần trôi nỗi, biến đổi, thể nhập với những định luật trên và chịu sự chi phối của chúng như định luật nhân quả...

          - Ứng thân : là sự hiển thị của hai thân trên trong những điều kiện đặc biệt nào đó.

          Đó là lý tưởng tột đỉnh của Chư Phật và Bồ Tát.

                                                                                   

TUỆ THIỆN                                                                                                                      01/12/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11709)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11206)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11934)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10244)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29240)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11955)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11939)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10952)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19620)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7332)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11369)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35311)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12862)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12214)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17344)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11476)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22106)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11826)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15919)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12126)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14108)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12607)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13224)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13655)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19995)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14411)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13546)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12344)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11902)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34728)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13732)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13069)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13427)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13313)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14930)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15734)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14872)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15850)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20782)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21307)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35133)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27535)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43933)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37906)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15137)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15075)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12974)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12645)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15615)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27699)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14962)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11413)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53183)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16523)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13167)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12613)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15585)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15496)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14758)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15614)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13037)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11764)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12300)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12584)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13483)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12471)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11969)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12740)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11620)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13736)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14101)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12916)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12745)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13011)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13912)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12991)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13611)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12445)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14432)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13294)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13760)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14628)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11859)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28286)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11782)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12645)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15060)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12007)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11770)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12861)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11985)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11521)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10285)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant