Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Sự Tu tập

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7736)
Chương 5: Sự Tu tập

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 5: Sự Tu tập

Mặc dù đường lối tu tập thiền định có rất nhiều đối tượng, chúng tôi vẫn khuyến khích bạn nên khởi đầu bằng lối gom tất cả mọi chú ý vào hơi thở của mình, để đạt đến một mức độ nào đó của khả năng tập trung. Nên nhớ rằng, bạn không phải là đang tu tập để đi vào trạng thái thôi miên hay xuất thần; mà chính là tu tập Chánh niệm. Cho nên chỉ cần có một chừng mực sức mạnh tập trung vừa phải; dùng nó để học hỏinhận thức ra chân lý về mọi hiện tượng (Pháp) như-nó-là. Những gì bạn muốn là hiểu biết đường lối vận hành của thân và tâm ra sao như-nó-là. Có được như thế, bạn mới có thể buông xả đi những phiền não tâm lý, hầu mong có một đời sống thật sự bình anhạnh phúc. Tâm không thể nào trong sáng khi không có sự hiểu biết rõ ràng cái bản thể của sự vật. Mệnh đề “Thấy mọi sự vật như-nó-là” đôi khi không diễn đạt được hết cái ý nghĩa về trạng thái này cho một số người, nhất là cho những thiền sinh còn mới sẽ lấy làm ngạc nhiên, vì bất kỳ ai có nhãn quan bình thường, đều có thể thấy mọi sự vật như là một vật thể hiện hữu trước mắt kia mà.

Khi chúng tôi đề cập đến mệnh đề này, trong lãnh vực trí tuệ tự chứng do kết quả thu được từ tu tập thiền, thì không có nghĩa là, thấy một cách hời hợt bên ngoài với đôi mắt bình thường, mà là thấy sự vật với tuệ giác ở nơi bản chất của nó. Nhìn sự vật bằng tuệ giác có nghĩa là, nhìn với trực giác mà không có xen lẫn những phán xét nảy sinh ra từ thành kiến, thiên vị của Tham, Sân, và Si. Thông thường, khi ngắm nhìn sự vận hành của thân-tâm, chúng ta có chiều hướng trốn tránh hay lơ là đối với những gì không dễ chịu và nắm bắt những thứ mà mình ưa thích hơn. Điều này xảy ra, vì bởi tâm của chúng ta thường hay bị ô nhiễm bởi sự ham muốn, sự phẫn uất và sự thiếu hiểu biết về sự thật. Cái ngã, tính ích kỷ, hay tư duy đầy ắp những khái niệm luôn nằm chắn ngang và tô màu sự phán xét của chúng ta.

Khi quan sát cảm xúc giác quan (Thọ) của mình trong chánh niệm, chúng ta đừng lầm lẫn những cảm thọ này với những chập tâm (Hành) cùng đang khởi sinh. Cảm thọ của thân có thể hình thành mà không cần có sự tác động nào của tâm cả. Cho một dẫn dụ: chúng ta đang ngồi thoải mái. Sau một lúc, bất chợt phát sinh cảm giác khó chịu ở lưng hay ở chân. Tâm của ta lập tức kinh nghiệm nổi khó chịu đó và tác động nên điều kiện làm khởi sinh lên biết bao tư tưởng về cảm giác khó chịu đó. Vào thời điểm đó, đừng để mình bị lẫn lộn cảm giác với hiện tượng tâm hành. Chúng ta nên cô lập cảm thọ như chỉ là cảm giácquan sát nó trong chánh niệm. Thọ là một trong bảy Tâm sở hữu tợ tha biến hành (Xúc, Thọ, Tưởng, Tư hay Hành, Nhất hành hay Tập trung, Mạng quyền, và Tác ý).

Ở vào một khi khác, chúng ta có thể sẽ có những cảm giác như phẫn uất, lo sợ, hay thèm khát, thì ta nên quan sát những cảm giác đó một cách khách quan mà đừng để cho lẫn lộn với những gì khác. Nếu chúng ta gom lại Thọ, Tưởng, Hành, Thức vào nhau mà quan sát cùng một lúc, giống như là một cảm giác chung, thì sự xáo trộn sẽ làm cho ta không thể nào nhận ra nguồn gốc của cảm giác được. Nếu chỉ đơn thuần đeo đuổi theo cảm thọ mà bỏ qua những tâm sở biến hành khác, thì quá trình học hỏi về chân lý sẽ rất ư là khó khăn. Muốn có được trí tuệ về đặt tính Vô thường của các pháp để xuyên rọi sự phẫn uất; sự hiểu biết về tính Bất toại nguyện để phá vỡ tâm Tham; nhận diện tính Vô ngã để đã phá tự ngã; thì chúng ta nên thấy ra tâm và thân một cách riêng biệt trước. Khi hiểu thấu suốt thân-tâm từng phần riêng rẽ, chúng ta sẽ thấy ra sự liên hệ thiết yếu bên trong của chúng. Khi trí tuệ tự chứng được vững vàng, chúng ta trở nên bén nhạy hơn trong sự chú tâm về tính phối hợp của mọi sự kiện đang lúcvận hành. Cái này không thể hiện hữu nếu không có những cái kia. Từ đó chúng ta thấy ra cái ý nghĩa thật của câu chuyện ngụ ngôn về một người mạnh khỏe mà bị mù có thể đi bình thường khi cỏng trên lưng một người tàn phế hai chân nhưng mắt vẫn còn sáng. Thiếu đi một trong hai người thì sự di chuyển của họ sẽ bị trở ngại ngay; còn khi hợp tác chặt chẽ thì họ hoạt động và làm việc họ muốn dễ dàng hơn. Cũng tương tự như thế, tự cơ thể không thể làm được điều gì cả. Nó giống như là một khúc gỗ không làm được một điều gì ngoại trừ nằm lăn ra để chờ bị biến dạng, hư nát, và chết đi theo thời gian. Còn tâm cũng không thể nào làm được điều gì khác cả ngoài trừ một việc duy nhấthợp tác với thân thể. Khi có chánh niệm chúng ta quan sát cả hai — thân và tâm — thì sẽ thấy ra những điều kỳ diệu mà thân-tâm có thể làm khi hòa điệu với nhau.

Chỉ khi nào ngồi một nơi, thì chúng tathể đạt được một chừng mực chánh niệm nào đó — dù là rất nhỏ. Dự khóa tu học để có cơ hội quan sát cảm giác, tri giác, trăm ngàn tư tưởng, và những trạng thái khác nhau của Ý thức một cách chặt chẽ hơn trong vài ngày hay vài tháng, có thể mang lại cho ta sự điềm tĩnhbình an. Thông thường, chúng ta không có nhiều thời gian để tọa thiền ở một nơi chốn nào đó. Cho nên, chúng ta nên tìm một phương pháp áp dụng chánh niệm vào sinh hoạt hàng ngày, để giúp cho mình có thể đối diện và hành xử tốt hơn với những sự việc sẽ xảy ra mà không thể nào nhìn thấy trước được. Những gì ta phải va chạm mỗi ngày thì không ai có thể nào đoán trước được. Sự việc xảy ra do nhiều nguyên nhânđiều kiện, bởi vì chúng ta đang sống trong thế giới của điều kiện và luôn thay đổi. Chánh niệm là một trang bị khẩn cấp luôn luôn sẵn sàng giúp cho ta trong mọi thời. Khi gặp những cảnh ngộ làm cho ta phẫn nộ, nếu có được chánh niệm hiện hữu, ta sẽ khám phá ra nhiều chân lý đang diễn ra trong tâm mình. Chúng ta sẽ thấy ra tính ích kỷ, tự ngã, chấp chặt, bảo thủ, tự cho mình là đúng và người khác thì sai, có thành kiến, thiên vị. Nói tóm lại, từ tất cả những thứ trên chỉ ra là, ta không thật sự biết yêu thương lấy chính mình. Khám phá ra sự thật đau lòng này, là bạn kinh nghiệm được một phần thưởng quí giá nhất, để rồi theo thời gian, sự khám phá này mang đến cho bạn trí tuệ hiểu biết thấu suốt về nguồn gốc của khổ đau tâm sinh lý.

Tu tập chánh niệmrèn luyện cho thiền sinh phải hoàn toàn thành thậttrung thực với chính mình. Khi quán sát thân-tâm, chúng ta nhận biết ra nhiều điều không dễ chịu chút nào cả. Thông thường, chúng ta hay phản kháng, tránh xa những gì mà mình không thích. Vậy con người thường hay không thích những gì? Loài người luôn không muốn rời xa những gì họ yêu thích và không muốn sống chung với những người họ không thương yêu. Đó không chỉ ám thị vào con người, nơi chốn, vật chất, mà còn bao gồm luôn những thứ khác như là: quan niệm, ý tưởng, niềm tin, và những quyết định mà mình phải đối mặt trong đời. Những gì xảy đến một cách tự nhiên thì thường là những điều chúng ta không thích (vì ngoài ý muốn của con người). Ví như, bị già cỗi theo tuổi, bị bệnh hoạn, trở nên yếu đuối hơn khi lớn tuổi, là những gì ta không thích; ngược lại chúng ta có ước muốn bảo tồn cái tuổi thanh xuân của mình mãi mãi. Hay là, không muốn ai chỉ ra những lầm lỗi của mình, vì nó sẽ làm tổn thương niềm tự hào bản thân. Hoặc là, tự lừa dối lấy mình bằng cách không chấp nhận bất cứ ai khác thông minh hơn mình. Đây là vài dạng của cá tính Tham, Sân, và Si.

Khi Tham, Sân, và Si biểu lộ trong đời sống hàng ngày, chúng ta nên dùng chánh niệm theo dõitìm hiểu thấu suốt tường tận cái cội nguồn của chúng. Căn nguyên của chúng không ở đâu xa cả, mà là ngay bên trong tâm ta. Nếu không có nguồn gốc Sân hiện hữu bên trong, thì không bất kỳ ai có thể làm cho ta giận dữ lên được; bởi vì có, nên nó mới nhảy ra, phản kháng lại những hành động, lời nói, hay thái độ của kẻ khác. Nếu có chánh niệm, chúng ta sẽ siêng năng dùng trí tuệ của mình để nhìn vào tâm; nếu không có sự căm hờn từ bên trong, ta sẽ không xem nặng vấn đề về những phê phán của người khác về mình. Thay vào đó, chúng ta còn cảm ơn người đã giúp ta nhận ra những khuyết điểm của chính mình. Chỉ khi nào có được trí tuệchánh niệm vững mạnh, ta mới cảm ơn được người đã lý giải ra lầm lỗi của mình, từ đó ta mới có thể thăng tiến trên con đường tu tập. Tất cả chúng ta đều có khuyết điểm. Đối với người có trí tuệ thì người khác là tấm gương phản chiếu những khuyết điểm của mình. Do đó, hãy nên xem người nói lời chỉ trích như là ân nhân của mình, vì họ đã chỉ ra những nét cao thượng đang tiềm ẩn mà ta đã bỏ quên. Chỉ khi nào ta nhận ra mình còn thiếu xót, thì ta mới có thể thăng tiến lên hơn. Trở nên tốt hơnphương pháp bất biến để đi đến sự hoàn thiện mà cũng là mục đích của chúng ta trong kiếp sống kia mà, phải không? Chỉ khi nào vượt qua những yếu điểm, chúng ta mới có thể vun đắp những chất lượng cao quý luôn ẩn tàng trong tiềm thức của tâm. Muốn khắc phục những sai sót, thì trước tiên ta phải biết chúng là gì.

Nếu khi mắc bệnh, chúng ta phải biết nguồn gốc và nguyên nhân của căn bệnh rồi mới có thể trị liệu đúng mức. Cho nên, nếu cứ khăng khăng cho là mình không bị bệnh trong khi ta luôn luôn đau khổ, thì chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm cách chạy chữa. Tương tự như thế, nếu nghĩ là mình không có sai lầm, thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ hiểu thấu được tâm mình. Vì mù quáng về những khuyết điểm tự thân, cho nên cần phải có ai đó chỉ ra cho ta. Và nếu họ giúp đỡ cho ta, thì chúng cần nên cảm ơn họ giống như ngài Xá-lợi-phất đã nói: “Dù cho một vị thầy còn trẻ đã chỉ ra khuyết điểm của tôi, tôi sẽ chấp nhậncảm ơn người ấy tột cùng.” Ngài Xá-lợi-phất đã là một vị A-la-hán, luôn luôn có chánh niệm và đã siêu thoát tự ngã, thế mà còn có phong thái như thế. Mặc dù chưa chứng đắc quả vị A-la-hán, chúng ta cũng nên noi theo gương của ngài, hầu mong đạt đến những gì mà ngài đã đạt tới.

Dĩ nhiên người chỉ ra được khuyết điểm của kẻ khác, chưa hẵn là người ấy siêu thoát được vấn đề này. Nhưng người ấy có thể thấy ra cũng như chúng ta cũng thấy ra khuyết điểm của người đó, mà họ không nhận ra cho đến khi nào ta chỉ ra cho họ.

Sự phản ảnh hai chiều này nên diễn ra trong chánh niệm. Nếu nêu ra khuyết điểm của người khác khi mình không có chánh niệm, người này dễ dàng tạo ra những điều phản tác dụng, rồi không gây nên lợi ích gì cho cả đôi bên. Bởi vì người không có chánh niệm thường hay dùng ngôn từcử chỉ lầm lạc, nên không diễn đạt được ý nghĩ của mình một cách chính đángrõ ràng. Người nghe sẽ dễ bị đánh mất chánh niệm theo, khi đón nhận những ngôn từ chói tai, và không còn nhận biết cái ý thật của người nói nữa. Cho nên, dù nghe hay nói phải tiến hành trong chánh niệm thì mới có ích lợi, có thế thì tâm ta mới không bị kiềm chế bởi tham lam, sân hận, ích kỷ, và si mê.

Mục tiêu

Người tu thiền phải có một mục tiêu, bằng không chúng ta chỉ mò mẫm như là đi trong bóng đêm theo sự chỉ dẫn của người nào đó. Mục tiêu nào đó thì phải được chúng ta chọn một cách có ý thức và sẵn sàng. Mục tiêu của người tu thiền Minh Sát không phải là để giác ngộ trước hơn một người nào khác, hay là sẽ có được thần thông, hoặc là có quyền lợi gì đó. Tu tập chánh niệm vốn không phải là để ganh đua với ai cả.

Mục đích của thiền giả là trở nên hoàn hảo hơn, có được đời sống tâm linh lành mạnh hơn. Mục tiêu này bao gồm năm yếu tố: 1) Tâm được trong sáng. 2) Siêu thoát cơn đau buồn và thương tiếc. 3) Siêu thoát nỗi đau và phiền não. 4) Bước đúng theo con đường dẫn đến sự bình an tuyệt đối. 5) Có được hạnh phúc trong lúc tu tập và sống theo con đường này. Hãy giữ lấy năm phần này trong tâm thì chúng ta có thể vững bước tiến dần đến mục đích của mình với niềm hy vọng và tự tin.

Phương pháp Tu tập

Một khi đã ngồi, thì đừng thay đổi tư thế cho đến khi hết khoảng thời gian đã được ấn định trước. Giả sử, bạn thay đổi tư thế này bởi vì nó đang có cơn khó chịu, qua một tư thế khác. Nhưng rồi sau một lúc, tư thế kia rồi cũng phát sinh cơn khó chịu giống như lúc trước. Thế là bạn lại tiếp tục thay đổi, rồi thay đổi.. thì bạn sẽ không bao giờ có được tầng mức tập trung sâu hơn trong chánh niệm. Do đó, đừng bao giờ thay đổi tư thế ban đầu dù cho cơn đau có khốc liệt đến đâu.

Để tránh thay đổi tư thế ngồi trong giờ tọa thiền, hãy lập quyết định “không thay đổi” từ lúc bắt đầu và ấn định thời gian cho buổi ngồi. Nếu bạn là người mới tập ngồi thì chỉ nên ngồi bất động không hơn hai mươi phút. Rồi theo thời gian, bạn có thể tăng dần lâu hơn. Khoảng thời gian ngồi còn tùy thuộc vào hai yếu tố: bao nhiêu thời gian bạn có được để cho buổi tọa thiền hôm nay, và bạn ngồi được bao lâu trong trầm mặc trước khi cơn đau hành hạ bạn.

Bạn không nên ấn định thời gian phấn đấu (bao lâu ta sẽ phải giác ngộ?) để đạt đến mục đích của mình. Thành quả có được luôn tùy thuộc vào sự tiến triển trong khi tu tập và khả năng hiểu biết xuyên suốt, cũng như mức độ trưởng thành của tâm. Chúng ta phải tu tập chuyên cần trong chánh niệm, tiến dần đến mục tiêu mà không có lòng mong mõi hay vội vã. Bao giờ sẵn sàng thì chúng ta tự nhiên sẽ đến. Việc cần phải làm là trang bị cho mình đầy đủ khả năng để khi đón nhận mà không bị chao đảo hay choáng ngợp.

Sau khi ngồi ổn định, hãy nhắm mắt lại. Tâm cũng tương tự như một ly nước đục. Nếu giữ được ly nước yên lặng càng lâu thì những tinh thể bẩn sẽ lắng đọng xuống đáy ly nhiều hơn; những tinh thể bẩn thô thì lắng mau hơn những tinh thể vi tế. Cùng diễn tiến như thế, nếu bạn giữ thân yên tịnh, chú tâm trọn vẹn vào đề mục, thì tâm sẽ lắng đọng dần cho đến lúc bạn có thể kinh nghiệm được trạng thái tĩnh lặng của thiền định.

Để chuẩn bị cho trạng thái này, chúng ta nên giữ cho tâm của mình luôn sống với phút giây hiện tại. Phút giây hiện tại thì luôn luôn thay đổi thật nhanh, làm cho người quan sát sơ cơ không thể nào nhận thấy sự hiện hữu của nó được. Mỗi phút giây là đời sống của mỗi sự kiện; nó luôn có điểm khởi đầu, thời gian biến đổi, tồn tại, và hoại diệt — Sinh, Trụ, Hoại, Diệt. Cho nên, chúng ta cố gắng tỉnh giác đối với phút giây hiện tại. Tâm ta quan sát dòng sự kiện như xem một đoạn phim trên màn ảnh, chiếu rọi những viễn ảnh của quá khứ qua từ kinh nghiệm và một số hình ảnh trong tương lai do sự tưởng tượng về những gì ta dự tính sẽ làm sau này.

Tâm không thể nào tập trung nếu không có đối tượng tâm. Do đó, chúng ta phải chọn một đề mục để nó có thể bám lấy trong mọi thời. Hơi thở thì luôn luôn ở hiện tại và cũng là một đề mục tốt. Tâm có thể nhận ra hơi thở ở trong bất kỳ sát na thời gian nào trong lúc trôi chảy vào và ra nơi mũi. Tu tập tuệ giác thì phải liên tục trong mọi lúc và mọi nơi, cho nên hơi thở là một đối tượng tốt nhất vì nó luôn luôn dính liền với bạn.

Sau khi đã ngồi như sự chỉ dẫn trên, hãy trang trải lòng Từ của bạn cho mọi người và hít thở ba hơi thật dài. Sau khi thở ba hơi dài rồi, thì thở lại một cách bình thường, cứ để hơi thở ra vào một cách thật tự nhiên mà không có bất cứ gì kiềm hãm hay điều khiển nó, và đặt chú tâm vào ở viền mũi nơi hơi thở va chạm. Chỉ đơn thuần cảm nhận hơi thở ra vào mà thôi. Ban đầu bạn chưa có đủ chú tâm thì sẽ không thấy có gì. Nhưng khi chánh niệm tăng dần, bạn sẽ nhận ra, từ trạng thái hít vào chuyển sang thở ra, có một khoãng thời gian ngắn của sự dừng lại. Khi nhận ra được sự kiện ấy và chánh niệm sâu xa hơn thì bạn cũng bắt được điểm chấm dứt, ngừng nghĩ, và khởi sinh của từng chu kỳ hơi thở

Đừng bao giờ diễn đạt thành lời hay khái niệm hóa bất cứ điều gì trong lúc tọa thiền. Chỉ đơn giản nhận biết hơi thở ra vào mà không cần phải thầm nói “hít”, hay “thở”. Khi bạn chú tâm vào hơi thở thì hãy gác lại những tư tưởng, kỷ niệm, âm thanh, mùi vị… mà chỉ chú tâm dành riêng cho hơi thở mà thôi, không cho bất cứ gì khác cả.

Vào lúc ban đầu, hơi thở thì ngắn và gấp, vì bởi thân và tâm chưa được thư giãn và trầm ổn. Chỉ cảm nhận cái trạng thái này mà không cần phải thầm nói “hít ngắn” hay “thở ngắn”. Nếu tiếp tục nhận thức hơi thở, thì thân và tâm dần dần ổn định lại. Sau một lúc thì hơi thở sẽ trở nên dài ra. Hãy nhận biết hơi trở một cách trọn vẹn từ đầu cho đến cuối từng chu kỳ. Cho đến khi hơi thở vi tế dần và thân-tâm cũng tĩnh lặng hơn nữa. Nhận biết sự tĩnh lặng và trạng thái an bình này.

Những phương pháp đối trị tâm xao lãng

Bất chấp sự trù tính giữ cho tâm dán chặt vào hơi thở mạnh mẽ ra sao, thì vẫn có lúc tâm bị trôi dạt. Những dĩ vãng, nơi chốn, con người, bạn cũ lâu ngày không gặp, quyển sách đã đọc qua, hương vị một món ăn, vv.. là những gì tâm hay lai vãng đến. Khi bất chợt biết ra tâm không còn ở với hơi thở nữa, một cách chánh niệm hãy mang nó về và cột nó vào lại. Tuy nhiên, vài phút giây sau, bạn lại nghĩ đến làm sao trả những phiếu chi tiêu, cú điện thoại quên gọi, một điện thư chưa trả lời, quần áo đang chờ giặt, thức ăn cần phải mua, dạ tiệc sẽ phải dự sắp đến, kế trình cho lần nghĩ hè tới… khi nhận ra tâm lại lang thang, mang nó trở về với hơi thở trong chánh niệm. Những lời khuyên sau đây có thể giúp bạn tái lập lại được mức tập trung cần thiết trong sự tu tập chánh niệm.

1. Đếm

Trong hoàn cảnh như thế, đếm số có thể làm cho tâm bớt trôi dạt. Mục đích của đếm số là làm đơn giản hóa vấn đề cho việc tập trung tâm vào hơi thở. Cho đến khi nào tâm đã an định vào hơi thở thì không còn cần phải đếm số tiếp nữa.

Trong khi hít vào thì đếm “một, một, một…” cho đến khi phổi đầy. Trong khi thở ra đếm “hai, hai, hai..” cho đến lúc phổi xẹp. Rồi tiếp đến đếm “ba, ba, ba..” khi hít vào, và “bốn, bốn, bốn…” khi thở ra. Đếm cho đến “mười” và lập lại nếu cần cho đến khi nào tâm hoàn toàn an định vào hơi thở.

Cách đếm thứ hai là đếm nhanh tới “mười.” Hít vào trong lúc đếm “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, và mười.” Rồi lại đếm giống như thế trong khi thở ra. Và cứ lập lại như thế nhiều lần cho đến khi nào tâm an ổn với hơi thở.

Lối thứ ba là đếm tiếp nối tới mười. Trong khi hít vào thì đếm “một, hai, ba, bốn, năm” (chỉ tới năm) và thở ra trong lúc đếm “một, hai, ba, bốn, năm, sáu” (tới sáu). Rồi đếm tới “bảy” khi hít vào, và đếm tới “tám” khi thở ra. Và cứ thế cho đến “mười” rồi bắt đầu lại.

Phương pháp thứ tư là hít thở dài. Khi hít vào đếm “một” và thở hết ra thì đếm “hai”. Và cứ thế cho đến “mười” rồi đếm ngược trở lại cho tới “một”. Lập lại cho đến khi nào tâm ở vững bền với hơi thở.

Cách thứ năm là đếm gập chung. Khi xong một chu kỳ hít vàothở ra thì đếm “một”. Rồi một chu kỳ tiếp thì đếm “hai”. Đếm cho đến “năm” rồi ngược lại cho đến “một”. Lập lại cho đến khi hơi thở thật điều hòa và êm dịu.

Nên nhớ rằng bạn không cần phải đếm trong mọi thời. Cho đến bao giờ tâm của bạn dán chặt vào viền mũi nơi mà hơi thở va chạm khi ra-vào, và cảm thấy hơi thở điều hòa và mỏng manh đến nỗi bạn không thể phân biệt hít vào hay là thở ra thì bạn nên dừng đếm. Đếm chỉ dùng vào mục đích huấn luyện tâm tập trung ở lại một điểm mà thôi.

2. Liên tục

Sau giai đoạn hít vào, đừng bao giờ gắng công nín thở để nhận diện ra điểm chuyển tiếp trước khi thở ra, mà hãy để cho hít và thở đi liên tục. Bạn có thể cảm nhận hít và thở như là một dòng liên tục.

3. Bám chặt

Sau khi liên tục hít và thở, đặt chắc tâm vào điểm nơi hơi thở va chạm trong lúc ra vào. Hít và thở như một dòng hơi đi ra vào, va chạm hay cọ xát nơi viền của cánh mũi.

4. Chú tâm giống như người thợ mộc

Vẽ một đường thẳng trên tấm ván mình muốn cắt, người thợ mộc cưa theo lằn đã vẽ. Anh không nhìn vào những răng của lưỡi cưa khi cưa, mà người thợ chỉ chú tâm vào lằn vẽ để cắt. Giống như thế, hãy giữ tâm nơi cái điểm mà bạn cảm thấy hơi thở va chạm.

5. Xem tâm như người gác cửa

Một người canh gác cửa thì không bao giờ để ý đến những chi tiết về kẻ đi vào nhà, mà anh chỉ nhận ra có những ai đi vào và ra khỏi nhà mà thôi. Cũng tương tự như thế, trong khi tập trung, bạn không nên đặt nặng về những chi tiết của kinh nghiệm, mà chỉ đơn thuần nhận biết cái cảm xúc hơi thở va chạm ở viền mũi khi nó ra vào.

Sự tu tập đều đặnđúng đắn dần dần sẽ làm cho thân và tâm trở nên nhẹ nhàng đến nỗi bạn có thể có cảm giác như là mình đang bay bổng trong không khí hay bềnh bồng trên mặt nước. Bạn cũng có thể có cảm tưởng như thân của mình đang bật tung lên cao. Khi hơi thở càng lúc càng trở nên vi tế hơn, và hơi thở vi tế này chính là đối tượng tâm mà bạn cần phải tập trung vào. Đây là dấu hiệu của tâm tập trung. Sự xuất hiện dấu hiệu này sẽ càng trở nên vi tế hơn giống như tiếng của cái chuông, lúc ban đầu thì thật lớn và rõ ràng, rồi dần dần nhỏ đi và tan biến vào trong hư không vô tận. Hơi thở thì cũng tương tự như vậy, lúc đầu thì rất thô, nếu chú tâm đủ lâu thì nó sẽ êm dịu dần và càng vi tế hơn, nhưng ý thức thì vẫn luôn luôn chú tâm nơi viền mũi. Những đối tượng tâm khác cũng sẽ trở nên rõ ràng hơn khi khả năng tập trung này phát triển mạnh hơn, trong khi hơi thở thì càng lúc càng trở nên tan biến dần. Chính vì sự vi tế này, mà đôi khi bạn có cảm giáchơi thở có lúc có, có lúc không. Đừng có lo âu hay hoảng sợ, chỉ chánh niệm và mang tâm về nơi viền mũi dù có cảm giác được sự xúc chạm của hơi thở hay không. Lúc này là lúc sự tu tập của bạn đang ở trạng thái nghiêm túc, năng lực được bền vững, có Chánh tín, có Chánh niệm, có Chánh định, và có Chánh kiến.

Dụ ngôn về người nông phu

Giả sử có một người nông dân dùng những con trâu để cày đất cho cánh đồng lúa. Vào lúc ban trưa, anh nghĩ ngơi dưới bóng cây trong khi các con trâu thì cũng quanh quẩn nhai cỏ gần đấy. Khi anh thức giấc thì không còn thấy trâu của mình ở đâu nữa cả. Anh thật lo lắng, chạy đến bờ sông gần đấy thì thấy những con vật ấy đang uống nước dưới khí hậu oi bức lúc ban trưa. Không có vấn đề gì cả, anh kéo nài dẫn chúng về, rồi tiếp tục cày đất tiếp.

Một cách tương tự trong lúc tu tập, hơi thở trở nên vi tế và nhuần nhuyễn đến nỗi bạn không còn cảm giác ra nó hiện hữu nữa hay không. Khi hiện tượng này xảy ra thì bạn cũng không nên lo lắng. Thật ra thì nó lúc nào cũng ở đó, ngay nơi chóp mũi; chỉ cần thở mạnh vài cái là bạn sẽ nhận ra nó ngay. Hãy tiếp tục chú tâm vào nơi va chạm của hơi thở.

Trong khi giữ tâm nơi viền mũi, bạn có thể nhận ra sự hình thành của đối tượng thiền định (mà theo thiền ngữ còn gọi là Cận tướng.) Những “Cận tướng” do tu thiền mang lại, còn tùy thuộc vào mỗi thiền giả và có những tác động, sự cảm nhận khác nhau. Có người thấy một vì sao, một then cửa, một sợi dây dài, những đốm hoa, những đợt khói, hay những màng nhện, hay là những đám mây, bông hoa nở, hay mặt trăng, mặt trời v.v…

Ở vào giai đoạn ban đầu của sự tu tập, bạn xem hơi thở ra vào là đề mục tu thiền. Cho đến lúc này thì bạn thấy ra Cận tướng như là một đề mục thứ ba (hít vào là một; thở ra là hai). Khi nào chú tâm vào đề mục thứ ba này, thì cũng là lúc tâm của bạn đang ở trạng thái tập trung thích hợp cho giai đoạn tu tập Tuệ giác. Đề mục này hiện bày rõ ràng ở ngay viền mũi của bạn. Hãy thuần thục và tập sự nắm bắt nó một cách vững vàng, để bất cứ khi nào bạn cần đến nó thì có bắt nó dễ dàng. Kết hợp tâm và Cận tướng đang hiện có trong lúc ấy và để cho tâm hòa nhập theo dòng vận hành của thời gian. Trong khi chỉ chú tâm vào nó, bạn sẽ thấy Cận tướng thì đang luôn luôn thay đổi không ngừng. Sự kết hợp của tâm vào phút giây hiện tại thì được gọi là “Sát-na Định”. Trong khi dòng thời gian liên tục trôi qua từ sát-na này sang sát-na kế tiếp thì tâm cũng hòa nhập theo như một thể mà cùng thay đổi, cùng xuất hiện và cùng tan biến, nhưng không có sự chấp thủ vào bất cứ hiện trạng nào cả. Nếu cố gắng dừng tâm lại ở một khoảng thời điểm nào, thì chúng ta sẽ phải thất vọng bởi vì tâm sinh diệt quá nhanh. Nó phải dính liền với những gì đang xảy ra trong từng sát-na mới. Chỉ có phút giây hiện tại thật sự hiện hữu, cho nên chúng ta chỉ có thể thật sự sống nếu hòa nhập vào phút giây hiện tiền.

Kết hợp tâm vào với phút giây hiện tại, chúng ta phải tìm thấy một điểm tựa đang xảy ra trong phút giây này. Nhưng bạn không thể nào chú tâm vào dòng thay đổi khi không có một mức tập trung cần thiết để bắt kịp nó. Chừng bao giờ có được khả năng tập trung đủ mạnh, bạn sẽ có thể tận dụng nó trong sự chú tâm vào bất kỳ những sự việc nào mà bạn muốn kinh nghiệm — sự phồng xẹp của bụng, sự căng giãn của ngực, sự sinh diệt của cảm giác, hay sự bắt đầu và đoạn cuối của hơi thở, tư tưởng, vv…

Để đạt được một chừng mực tiến bộ trong quá trình tự chứng, bạn rất cần loại “Sát-na Định” này. Đó là tất cả những gì bạn cần trong quá trình tu tập Tuệ giác, bởi vì mọi thứ chỉ có thể kinh nghiệm trong một sát-na. Khi tập trung để mang trạng thái Định này vào dòng thay đổi đang xảy ra trong thân-tâm, bạn sẽ nhận ra rằng hơi thở là phần sinh lý (sắc) và cảm giác về hơi thở qua Ý thức nhận biết là phần tâm lý (danh). Trong lúc nhận diện chúng, bạn cũng thấy ra chúng luôn thay đổi không ngừng. Có rất nhiều loại cảm xúc cùng xảy ra ngoài cảm giác về hơi thở nữa trong thân. Hãy quan sát tất cả ở từng phần trong thân. Đừng bao giờ thử tạo ra bất kỳ một cảm giác nào không tự nhiên lên thân. Khi có tư tưởng phát sinh thì hãy ghi nhận chúng. Bạn nên nhận ra những hiện tượng này đều có tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã, dù cho kinh nghiệm chúng ở lãnh vực nào — tâm hay sinh lý — thì cũng thế.

Trong khi Chánh niệm tăng trưởng thì sự khó tính của bạn cũng dần thay đổi, tính phản kháng lại những gì mình không thích, bám víu vào những gì mình ưa thích, và quan niệm về tự ngã, sẽ dần dần bị thay thế đi bởi sự hiểu biết thấu suốt về vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Kinh nghiệm được chân lý này, nó giúp bạn vun bồi thêm sự trầm tĩnh, an bình, và tư thế vững vàng đối với cuộc đời. Những gì trong quá khứ mà bạn cho là thường hằng, giờ đây bạn thấy ra chúng đã và đang thay đổi ở một tốc độ khó mà tin được, ngay cả tâm của mình cũng còn không thể bắt kịp. Vì một lý do nào đó, dần dần bạn nhận ra được nhiều sự đổi thay, sẽ thấy ra tính vô thườngvô ngã luôn tiềm ẩn của chúng. Khả năng thấu hiểu sự thật ẩn dấu bên trong này, sẽ chỉ ra cho bạn con đường đi đến bình an, hạnh phúc và cho bạn trí tuệ để đối diện với mọi vấn đề hàng ngày trong đời sống.

Khi tâm kết hợp với hơi thởvận hành như một thể trong mọi sát-na, chúng ta sẽ có thể tập trung tâm vào giây phút hiện tại một cách tự nhiên. Chúng ta nhận thấy cảm giác phát sinh từ sự va chạm của hơi thở vào viền mũi. Nguyên tố đất của hơi khi đi ra-vào, xúc chạm vào nguyên tố đất của viền mũi, cho nên tâm cảm nhận ra luồng gió vào ra. Cảm giác ấm trổi dậy ở viền mũi hay ở bất cứ nơi nào trên thân do sự xúc chạm của nguyên tố lửa tạo nên do quá trình thở. Cảm giác vô thường của hơi thở sinh khởi khi yếu tố đất của hơi thở chạm vào viền mũi. Mặc dù yếu tố nước cũng có mặt trong hơi thở nhưng tâm không thể nào cảm giác ra.

Chúng ta cũng cảm nhận ra sự căng và co thắt của phổi, bụng, đan điền khi không khí mới được bơm vào và ép ra khỏi lồng phổi. Sự căng và co thắt của bụng, đan điền, và ngực là những phần chu kỳ chung của vũ trụ. Mọi hiện tượng trong vũ trụcùng chung chu kỳ của sự căng ra và co thắt cũng giống như hơi thở và thân của chúng ta. Tất cả đều có sinh và diệt. Dù thế nào đi nữa, mối quan tâm chính của chúng tahiện tượng sinh diệt của hơi thở cùng với thân-tâm của chúng ta ở vào thời điểm đó.

Trong tiến trình của sự hít vào, nếu có đủ định lực chúng ta có thể kinh nghiệm được ít nhiều sự bình thản. Sự bình thản không có nét căng thẳng này lập tức biến thành sự căng thẳng nếu chúng ta không thở ra trong vài sát-na kế. Rồi khi thở ra, sự căng thẳng kia bị tan biến đi. Sau khi thở ra, chúng ta sẽ kinh nghiệm sự khó chịu nếu đợi chờ hơi lâu trước khi hít vào hơi thở mới. Điều này có nghĩa là mỗi khi phổi đầy thì phải thở ra và phổi xẹp thì bắt buộc phải hít vào. Và trong lúc hít thở, chúng ta kinh nghiệm được một chút sự bình thản. Chúng ta luôn có chiều hướng ham muốn sự bình thản và trút đi áp lực; và lại càng không thích áp lực tạo ra từ sức ép thiếu hơi. Chúng ta mong muốn sự bình thản ở lâu hơn và sức ép biến mất mau hơn, nhưng điều đó không thể nào xảy ra được theo ý muốn của mình. Để rồi, chúng ta trở nên dao động, cáu bẳn do cái tính ham muốn phi lý của mình. Ở điểm này, chúng ta thấy ra tính tham lam vi tế về “cầu bất đắc” — muốn hiện tượng vô thường trở nên vĩnh thường — tạo ra khổ đau và bất toại nguyện. Vì không ai có thể khống chế được hiện trạng này, cho nên chúng ta càng trở nên thất vọng hơn. 

Tuy thế, nếu quan sát hơi thở mà không có lòng ham muốn sự bình thản và cũng không bực bội về sức ép trổi dậy do quá trình thở, mà chỉ kinh nghiệm tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã của hơi thở, tâm của chúng ta dần dần trở nên bình an và tĩnh lặng.

Dĩ nhiên, tâm không bao giờ ở mãi với cảm xúc của hơi thở, nó còn đón nhận âm thanh, ý tưởng trong quá khứ, tình cảm, quan niệm, tri thức, và các tâm sở biến hành nữa. Khi chúng ta kinh nghiệm những trạng thái này, chúng ta nên quên đi cảm xúc hơi thởlập tức tập trung tâm ý vào trạng thái hiện đang có — từng trạng thái cho mỗi lần, không phải là tất cả trong một lần. Khi chúng tan biến đi, chúng ta mang tâm mình về lại hơi thở vốn là điểm căn bản mà ta luôn luôn trở về sau những cuộc hành trình xa nhà. Cũng cần nhắc lại, tất cả những cuộc hành trình vượt không gian này luôn luôn được diễn ra không ngoài tâm.

Mỗi khi tâm trở về lại hơi thở, nó trở lại với sự hiểu biết một chút sâu xa hơn về ba đặc tính của sự thậtvô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Tâm trở nên thấu suốt hơn ra, từ quan điểm khách quan, không thiên vị, về những sự cố này. Nó sẽ có được sự hiểu biết bên trong về sự thật là, thân này, cảm giác, muôn ngàn ý tưởngtâm hành, đều dùng để dạy cho ta sự thật rốt ráo về mối kết hợp đa dạng của tâm và thân này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13400)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11709)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11209)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11935)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10247)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29241)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11956)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11939)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10953)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19625)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7333)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11369)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35314)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12863)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12214)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17344)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11476)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22108)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11826)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15921)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14108)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12608)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13224)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13656)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19997)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14411)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13546)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12345)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11902)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34731)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13732)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13069)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13428)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13313)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18046)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14930)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15736)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14873)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15851)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20782)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21308)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35136)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27539)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43937)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37909)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15137)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15075)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12974)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12645)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15616)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14963)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11415)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53184)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16523)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13167)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12614)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15585)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15498)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14758)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15614)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13038)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11764)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12301)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12584)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13484)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12471)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24983)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11970)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12741)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11620)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13739)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14101)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12916)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12748)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13011)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13917)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12992)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13611)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12445)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14434)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13294)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13760)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14628)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11859)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28289)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11783)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12645)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15061)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12007)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11772)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12863)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11985)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11521)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant