Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ năm

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12346)
Ngày thứ năm

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ năm:

Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về việc ăn chay, phóng sanh

Pháp môn Tịnh Ðộ lợi khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn duy nhất vô thượng trong thời này. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm phu khổ não, lo gấp thoát sanh tử làm gì, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người là được rồi!” Hai hạng người này đều chẳng hiểu rõ nhân quả vậy. Bởi thế, hôm nay tôi lại giảng về nhân quả

Các vị phải biết câu: “Chúng sanh tức là Phật” chỉ cho cái nhân chân thậtPhật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu diệu hạnh Niệm Phật thì Phật tánh không cách nào hiển hiện, làm sao giải thoát sanh tử, thành tựu thật quả Phật đạo được? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật chẳng mất mảy may. Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì lại chiếu soi hết thảy. Còn như lời lẽ: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, cam bề đọa lạc

Nay người đời mải lo bon chen, tranh chấp, chẳng hề đoái hoài chuyện sanh tử, chẳng biết là bao nhiêu. Nếu họ có thể dụng công tu hành niệm Phật khó nhọc như thế thì lo gì chẳng được vãng sanh Tây Phương, thượng chứng Phật quả! Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi. 

Trong cuốn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị gốc bệnh cam bề đọa lạc và bệnh tự tôn, tự đại sai lầm. Giáo thuyết ấy rất tinh xác, kẻ học Phật chẳng thể không biết đến. 

“Lục tức Phật” là: một là lý tức Phật, hai là danh tự tức Phật, ba là quán hạnh tức Phật, bốn là tương tự tức Phật, năm là phần chứng tức Phật, sáu là cứu cánh tức Phật. “Lục”: minh thị thứ lớp sâu cạn, “tức”: chỉ rõ ngay nơi thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể vội bảo nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì chẳng sẽ chẳng lui sụt, khiếp nhược. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn, từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do “lý tức Phật” mà thành “cứu cánh tức Phật” vậy. 

a. “Lý tức Phật” là hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng Phật tánh công đức vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là “lý tức Phật”, coi lý thể của tâm tức là Phật vậy. Ông Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng: 

Ðộng, tịnh lý toàn thị 

Hành, tàng sự tận phi, 

Minh minh tùy vật khứ, 

Yểu yểu bất tri quy 

(Ðộng, tịnh vốn toàn lý, 

Hành, tàng chẳng trúng gì, 

Tối tăm theo đuổi vật, 

Mờ mịt chẳng biết về) 

Ðấy là vì hết thảy chúng sanh tuy chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh vốn toàn lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng xứng với Phật tánh. Quanh năm, suốt tháng, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục, phiền não vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết phản chiếu hồi quang, nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”. 

b. “Danh tự tức Phật” là do nghe từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ, tịch chiếu viên dung, Phật tánh bất sanh, bất diệt. Về phương diện danh tự, thông đạt, hiểu rõ, biết hết thảy Phật pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó chính là: nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thông đạt Phật pháp. Kệ tụng rằng: 

Phương thính vô sanh khúc, 

Thỉ văn bất tử ca, 

Kim tri đương thể thị 

Phiên hận tự ta đà. 

(Vừa lắng khúc vô sanh

Thoảng nghe bài bất diệt

Liền biết ngay đương thể

Tiếc đã trót lần khân)

Ý nói: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay mới biết Phật tánh chơn thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể chính là nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, chỉ hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm đến nỗi đến hiện giờ vẫn chưa thể sớm chứng Thật Quả được! 

c. “Quán hạnh tức Phật” là y giáo tu Quán, tức là địa vị ngoại phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là: 

1. Tùy Hỷ Phẩm: nghe pháp Thật Tướng, tín giải, tùy hỷ

2. Ðộc Tụng Phẩm: đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh, hiểu biết

3. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho tha nhân

4. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để hỗ trợ quán tâm

5. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Chánh hành Lục Ðộ, tự mình hành, dạy người khác hành, đầy đủ cả Sự lẫn Lý. Quán Hạnh càng thêm thù thắng

Kệ tụng rằng:

Niệm niệm chiếu thường lý 

Tâm tâm tức huyễn trần 

Biến quán chư pháp tánh 

Vô giả diệc vô chân. 

(Niệm niệm chiếu thường lý, 

Tâm tâm bặt huyễn trần 

Quán khắp các pháp tánh

Nào còn giả cùng chân)

Ðã viên ngộ Phật tánh, y giáo tu Quán để đối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, nào còn giả cùng chân”. 

c. “Tương tự tức Phật” là tương tự giải ngộ, khai phát, tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng: 

Tứ Trụ tuy tiên thoát, 

Lục trần vị tận không 

Nhãn trung do hữu ế 

Không lý kiến hoa hồng 

(Trước đã thoát Tứ Trụ

Nhưng lục trần chửa không, 

Mắt vẫn còn màng mộng 

Thấy hoa đốm trên không) 

Tứ Trụ là: 

1. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới

2. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới

3. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới

4. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới

Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: “Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp vẫn còn, chưa đoạn sạch nên bảo là: “Nhưng lục trần chửa không”. Ðây là luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn hết sạch. Tập khí là những dư âm của các Hoặc Chướng. Giống như cái mâm đựng thịt đã rửa sạch, nhưng vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Pháp Giới

d. “Phần chứng tức Phật” là Thập Tín hậu tâm. Phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức nên gọi là “phần chứng tức Phật”. Là vì với bốn mươi hai phẩm Vô Minh, Sơ Trụ phá được một phần; cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Từ các địa vị Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác lần lượt phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụthể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này đã chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát? Kệ tụng rằng: 

Khoát nhĩ tâm khai ngộ 

Trạm nhiên nhất thiết thông 

Cùng nguyên do vị tận 

Thượng kiến nguyệt mông lung 

(Ðột nhiên tâm khai ngộ

Lặng trong hết thảy thông, 

Vẫn chưa thông tận gốc 

Còn thấy nguyệt mông lung) 

“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói về cảnh tượng chứng ngộ đôi phần, phá được vô minh đôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, còn thấy nguyệt mông lung” ý nói còn bị mây vô minh che lấp nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chơn trong tự tánh

e. “Cứu cánh thành Phật” là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên thấu đạt tột cùng Chơn Tánh, đoạn sạch Hoặc Chướng, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chơn Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Kệ tụng rằng: 

Tùng lai chơn thị vọng 

Kim nhật vọng giai chơn 

Ðản phục bổn thời tánh 

Cánh vô nhất pháp tân. 

(Từ trước, chơn là vọng 

Hôm nay, vọng là chơn, 

Chỉ khôi phục bổn tánh 

Có pháp nào mới đâu?)

“Từ trước chơn là vọng” nghĩa là trước khi chứng ngộ tuy thấy Ngũ Uẩn này đều là không, nhưng lầm sanh chấp trước khiến cho Sắc Pháp, Tâm Pháp thành lập đến nỗi khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn thấy Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chơn Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn. Vì thế, bảo là: “Hôm nay, vọng là chơn”. Nhưng sở chứng ấy nào phải là điều gì mới mẻ, chẳng qua là phục hồi lại Chơn Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bổn tánh, có pháp nào mới đâu?” 

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi, trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ tâm, chứng tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch bất tín, tâm Phật cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy kẻ đó chính là vị Phật chưa thành vậy. 

Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm bảo tôi: “Pháp Sư Viên Anh nói đạo tràng sắp viên mãn. Ngày hoàn mãn sẽ cử hành phóng sanh. Ðến ngày 16 sẽ nói về Tam Quy, Ngũ Giới”, xin tôi vì đại chúng giảng đại ý việc phóng sanh và thọ Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mong đại chúng cùng phát tâm lợi vật, lợi người. Bởi thế, bây giờ tôi sẽ riêng tuyên giảng. 

Pháp hội này vốn là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì đa phần là vì sát sanh, ăn thịt mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát kiếp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm giữ gìn, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm” Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn nhắc, tận lực cảnh tỉnh, kiêng dè

Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát tâm giữ gìn sanh mạng. Chính mình đã phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Chính mình đã chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy giữ gìn, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa thì loài vật còn chẳng nỡ giết, huống hồ là giết người? Tự nhiên trừ được sát kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy dù có chút công đức phóng sanh, vẫn e khó địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! 

Hiện pháp hội này dự định ngày viên mãn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm quyên trợ, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến ngày kế đó, đệ tử quy ycúng dường chi, Ấn Quang tôi quyết định dùng hết vào việc ngăn ngừa tai nạn, trọn chẳng để dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông Tăng trơ trọi, vốn đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, có giữ tiền cũng vô dụng! Mai kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển là hết chuyện, cũng chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ hình thức kỷ niệm nào. 

Ngay cả việc quy y đây, từ đầu tôi vốn chẳng thuận, nhưng bởi cư sĩ Khuất Văn Lục và pháp Sư Viên Anh đốc thỉnh, viện lẽ các vị phát tâm cầu pháp tình ý ân cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, chẳng thể khước từ, nên đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chuẩn bị cho quy y. Tôi thì không tiền cũng quy y được, chỉ cần thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua được danh mục quy y! Như thế thì mới là tín đồ chơn thật quy y Tam Bảo, mới có thể đạt đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8669)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9113)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10035)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10212)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11069)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9045)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9513)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8030)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9298)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11326)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9074)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17489)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12196)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26103)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9556)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9423)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9996)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11362)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9716)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10263)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13677)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15982)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15614)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18635)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19072)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18879)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13840)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19196)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11718)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23171)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19237)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18317)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8719)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27092)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19991)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15308)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15516)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26844)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16397)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19428)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19796)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19947)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18640)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32504)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20279)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45950)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6871)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22745)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24400)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39273)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20551)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19900)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40793)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18642)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18483)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9207)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14227)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18195)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17664)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant