Tóm tắt: Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa. Ở Trung Quốc, tư tưởng Tịnh độ xuất hiện sớm thông qua việc người dân thờ phụng Phật A Di Đà. Tuy nhiên, sau khi các bộ kinh điển Tịnh độ được dịch từ Phạn văn sang Hán văn mới xuất hiện với tư cách là một pháp tu. Dần dần, pháp tu Tịnh độ phát triển thành “tông”, gọi là Tịnh độ tông. Ở Việt Nam, pháp tu Tịnh độ xuất hiện sớm, nhưng chưa thành một tông, song có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tu tập của tín đồ Phật giáo và người dân. Vì thế, pháp tu này đã được nhiều thế hệ học giảnghiên cứu. Trong đó, có nhiều học giả đã và đang trải nghiệm tu tập Tịnh độ. Trên cơ sở tiếp cận Sử học tôn giáo và Tôn giáo học, bài nghiên cứu này sẽ làm rõ niềm tin và thực hành pháp tu Tịnh độ trong lịch sử Phật giáo.
Tư tưởng nhờ Phật lực (tha lực) để giác ngộ, giải thoát có nguồn gốc từ kinh điển Phật giáo Nguyên thủy. Nhiều nhà nghiên cứu Phật học cho rằng, tư tưởng này bắt nguồn từ Kinh Na Tiên Tỳ kheo. Nội dung bộ kinh ghi lại những lời vấn đáp giữa Tỳ kheo Na Tiên (Nāgasena) với vua Di Lan Đà (Milinda) về vấn đề nếu ai đó từng làm việc bất thiện, nhưng khi lâm chung biết tưởng nhớ đến Phật sẽ được Phật lực nâng đỡ mà sinh lên các cõi trời [1]. Junjiro Takakusu khi nghiên cứu bộ kinhnày cho rằng tư tưởng “được cứu độ” là độc đáo trong tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy. Ông nhấn mạnh: “Nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật, nghĩa là Đức Phật của ánh sáng vô tận (Vô lượng quang) và của tuổi thọ vô tận (Vô lượng thọ). Khi lý tưởng về Niết bàn, vốn là phi không gian, phi thời gian, bất sinh, bất diệt, bất động được thể hiện, thì đấy chính là Vô tận hay Vô lượng (A Di Đà, Amita hay Amitabha). Sự mô tả về cõi Cực lạc, ý nghĩa Vô lượng quang và Vô lượng thọ và nhân cách giác ngộ của trí tuệvà từ bi vô cùng tận, tất cả giản dị là những giải thích về “Vô lượng” [2]. Đây chính là tư tưởng Tịnh độ, bởi Vô lượng quang, Vô lượng thọ,… là những “Hồng danh” của Đức Phật A Di Đà.
Niềm tin Phật A Di Đà
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giảng cho môn đồ thời bấy giờ biết về tiền thân Phật A Di Đàtrước khi là vị Giáo chủ Thế giới Tây phương Cực lạc (TGTPCL). Cụ thể, Kinh Vô Lượng Thọ cho biết, Đức Phật Thích Ca cho Tôn giả A Nan thấy rằng, từ rất lâu, sau khi từ bỏ ngai vàng xuất gia, Sa môn Pháp Tạng được Thế Tự Tại Vương Như Lai trao pháp tu Tịnh độ (PTTĐ) để cứu độ chúng sinh. Sa môn Pháp Tạng đã phát 48 đại nguyện cứu độ tất cả chúng sinh. Đến nay (thời Phật Thích Ca Mâu Ni) trải qua 10 kiếp, Sa môn Pháp Tạng đã là Phật, hiệu A Di Đà, là Giáo chủ TGTPCL. TGTPCL cách muôn ức cõi về phía Tây. Ngoài ra, trong Kinh Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ tát và Kinh Bi Hoa cho biết chi tiết hơn về tiền thân Phật A Di Đà khi còn là một vị thái tử, tiền thân Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Hiện nay, bộ tượng Tây phương Tam thánh chính là hình tượng hóa Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí được tôn trí trong các ngôi chùa.
Trong 48 hạnh nguyện của Phật A Di Đà thì nguyện thứ 18: “Giả sử khi Tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tín muốn sinh về cõi nước Tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu chẳng được vãng sinh, Tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh giác, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp” lại được tín đồ sùng kính hơn cả. Bởi nguyện thứ 18 hứa cho những ai có niềm tinsâu sắc nơi Phật A Di Đà và trọn tấm lòng thanh tịnh niệm Phật sẽ được thác sinh Tịnh độ. Lời nguyện thứ 18 cũng khẳng định rằng, những người phạm tội ngũ nghịch, chê bai Chánh pháp sẽ không được vãng sinh. Ngoài ra, nguyện thứ 19 tiếp dẫn trước giờ lâm chung có nội dung: “Giả sử khi Tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, Tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặthọ. Nếu không như vậy thì Tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác” dành cho những ai có nhiều công đức. Nguyện thứ 20 nói rằng ai chuyên niệm danh hiệu Ngài với ý nguyện thác sinh về TGTPCL của Ngài sẽ được như ý: “Giả sử khi Tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của Tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước Tôi mà chẳng được toại nguyện thì Tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác”.
Theo ghi chép cho thấy tín đồ Phật tử theo PTTĐ tin rằng, TGTPCL được mô tả trong Kinh A Di Đàlà thế giới có thật, vô cùng đẹp đẽ với cảnh vật được trang hoàng bằng thất bảo; Nhân dân trong thế giới này đều có tướng đẹp và được hưởng trọn vẹn niềm vui thanh tịnh, ăn mặc tùy ý,… Quan trọng hơn, trong thế giới này, tất cả mọi người đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Song, Kinh A Di Đà cũng chỉ rõ, tín đồ muốn đến thế giới này cần phải có niềm tin sâu, tin chắc. Có niềm tin như vậy chắc chắn sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn lúc lâm chung. Theo Đại sư Huệ Viễn, TGTPCL bao gồm3 cõi ứng với các hạng như sau:
Thực hành PTTĐ được các tín đồ Phật giáo căn cứ theo kinh điển Tịnh độ, đó là phương phápniệm Phật. Theo Kinh A Di Đà: “Ông Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân, nghe nói Phật A Di Đà, chuyên niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn; đến khi người ấy mất đi, Phật A Di Đà, cùng các Thánh chúng, hiện đến trước mặt. Khi người ấy mất, tâm không chao đảo, liền được vãng sinh, sang thế giới Cực lạc, Phật A Di Đà” [14]. Như vậy, Kinh A Di Đà đã chỉ ra phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà, vì thế, bộ kinh này được tín đồ Phật giáo, đặc biệt là tín đồ tu Tịnh độ đánh giá: “Chỉ ra đường lối thiết yếu tu hành, là then chốt để nhận rõ thực tướng của tâm tính mình. Nó là cương lĩnh của muôn vànđức hạnh tu trì” [15]. Nghĩa là, tín đồ thực hành niệm Phật sẽ đạt đến mức tâm không còn tán loạn“nhất tâm bất loạn” thì có được cuộc sống thanh thản, an lạc và lúc lâm chung chắc chắn được Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh TGTPCL. Kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ ra 16 phương pháp thực hành nhằm vãng sinh TGTPCL. Đó là 16 phép quán tưởng do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni “vì tất cả chúng sinh, ở đời vị lai, bị giặc phiền não làm hại, mà nói thiện nghiệp thanh tịnh. Lành thay! Bà Vi Đề Hi, muốn hỏi việc đó. Này ông A Nan, ông hãy thụ trì, tuyên lời Phật nói, cho nhiều người nghe. Nay Như Lai ta, dạy bà Vi Đề Hi và tất cả chúng sinh ở đời vị lai, quán tưởng thế giới Tây phươngCực lạc” [16]. Nhìn chung, 16 phép quán tưởng đòi hỏi tín đồ chuyên tu Tịnh độ theo một lộ trình tu tập từ thấp đến cao. Từ quán tưởng mặt trời (sơ quán) đến quán tưởng nước (quán tưởng thứ hai), tiếp đến quán tưởng đất (quán tưởng thứ ba),… Nếu tín đồ thực hành quán tưởng đúng thì mỗi bước có công dụng khác nhau. Chẳng hạn, phương pháp quán tưởng đất, Kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: “Nếu quán về đất, thì diệt trừ được tội khổ trong tám mươi ức kiếp sinh tử, bỏ báo thânnày, đời khác được sinh về Tịnh độ, tâm chẳng hoài nghi, quán tưởng như vậy, gọi là chính quán. Nếu quán sai khác, gọi là tà quán” [17],… Với 16 phép quán này, tín đồ Phật tử thực hành theo lộ trình từ thấp đến cao và đến mức thuần thục thì họ cảm ứng thấy Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời sống của mình chứ không cần chờ khi lâm chung mới thấy được các ngài. Cho nên: “Kinh này gọi là: Quán Cực Lạc Quốc, Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát” [18]. Kinh Vô Lượng Thọ tuy không đề ra phương pháp thực hành nào, nhưng lại nhắc đến tầm quan trọng phương pháp niệm Phật, đó là Thập niệm (10 niệm). Thập niệmđã được một số đại sư căn cứ luận giải nhằm khuyến khích tín đồ phát tâm Bồ đề, tu công tích đức,… Trải qua thời gian, nhiều phương pháp thực hành khác tiếp tục được thế hệ các tín đồ Phật giáo khám phá, luận giải và truyền lại cho thế hệ sau.
Tín, theo Đại sư Vô Trước (Asanga) viết trong Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh bao gồm: 1. Sự tin tưởng chắc chắn và toàn vẹn; 2. Niềm vui thanh thoát với đức tin; 3. Sự ước vọng hay mong muốn hoàn thành một mục đích theo đuổi. Vì thế, thứ nhất là phải tin ở mình, tin ở cái tâm chânthực trong mình [19]; Thứ hai là tin Phật Thích Ca Mâu Ni vì chúng sinh mà thuyết pháp; tin Phật A Di Đà không lập hạnh nguyện suông và tin như thế “gọi là tin ở Người” [20]; Thứ ba là tin người niệm Phật với tâm không tán loạn thì chắc chắn được vãng sinh. Song nếu tâm người niệm Phậtvẫn còn tán loạn thì ít nhất người đó đã gieo “hạt giống” để thành Phật mai sau; Thứ tư là tin người được vãng sinh là kết quả của việc thực hành niệm Phật; Thứ năm là tin TGTPCL là có thật, thanh tịnh, trang nghiêm chứ không phải là thế giới do Phật Thích Ca Mâu Ni vẽ ra, hay do con ngườitưởng tượng. Thứ sáu là tin ở Lý [21], cõi Tịnh độ là cõi biến hiện ngay trong tâm của người khi niệm Phật (Duy tâm Tịnh độ) vì cõi Tịnh độ là tịnh thân của Phật A Di Đà nhưng cũng là Tịnh độ của mỗi người nếu một lòng niệm Phật.
“Muốn sinh nước đó thì phải tu hành ba điều phước thiện:
– Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự Sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười điều thiện;
– Hai là quy y Tam bảo, giữ gìn năm giới, không phạm oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi;
– Ba là phát Bồ đề tâm, xác tín nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người làm theo. Ba việc như thế gọi là Tịnh nghiệp” [24].
Theo ghi chép, Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ (845 – 975) thấy tín đồ Thiền tông rơi vào tình trạng coi trọng Thiền hơn Tịnh, ông đã viết bộ Vạn thiện đồng quy, chủ xướng thuyết “Duy tâm Tịnh độ”, đề cao Xưng danh niệm Phật và Thập niệm. Đại sư Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615) cho rằng tín đồtheo PTTĐ nhất định phải theo nguyên tắc Tín – Nguyện – Hạnh và khuyên tín đồ nên Trì danhniệm Phật. Đại sư Ngẫu Ích Trí Húc (1599 – 1656) chủ xướng Thiền, Giáo, Luận xuất phát từ một cội nguồn. Ông cho rằng, Thiền là tâm của Phật, Giáo là lời của Phật và Luật là hành của Phật, chỉ có niệm Phật là nơi qui tụ của tất cả các pháp môn tu hành trong Đạo Phật. Ông chia niệm Phậtthành 3 loại: Niệm tha Phật, Niệm tự Phật và Niệm tự tha Phật. Trong 3 loại này, chỉ có Niệm tha Phật là “chỉ chuyên chú ức niệm quả đức trang nghiêm của Phật A Di Đà, lấy đó làm cảnh sở niệm” [25]. Ngoài ra, ông còn quan niệm, Kinh A Di Đà nói về hai tông Giáo, Thiền đều dùng phương pháp niệm Phật. Người mà nhất tâm niệm Phật sẽ đề phòng và tránh được những chuyện sai trái, dừng làm việc ác, tinh tấn học Luật. Người tinh tấn học Luật cũng hết lòng mong muốn quyết định vãng sinh. Do đó, nhất tâm niệm Phật là Sự; trì giới là Nhân và Tịnh độ là Quả. Trong đó, Trì giới và niệm Phật vốn chỉ một pháp môn là Tịnh độ. Như vậy, có thể thấy quan niệm của Đại sưNgẫu Ích Trí Húc về phương pháp niệm Phật vô cùng sâu sắc. Nhưng bản thân ông cũng ý thức rõ về sự “sâu sắc” sẽ đem đến những “rắc rối” cho tín đồ theo PTTĐ. Nhất là với tín đồ Phật giáo tại gia. Cuối cùng, ông lại trở về với những phương pháp thực hành và nguyên tắc thực hành cơ bản của PTTĐ: “Người muốn mau thoát khổ luân hồi chẳng gì bằng Trì danh niệm Phật, cầu sinh về thế giới Cực lạc. Người muốn quyết định sinh về thế giới Cực lạc không gì bằng dùng Tín làm đầu, lấy Nguyện làm cái roi để sách tiến. Nếu có lòng tin kiên cố, nguyện thiết tha, tuy tán tâm niệm Phật, cũng chắc được vãng sinh. Nếu lòng tin không chân thật, nguyện cũng không dũng mãnh thì tuy nhất tâm bất loạn, nhưng vẫn không được vãng sinh” [26]. Vọng Nguyệt Tín Hanh (1869-1948) người Nhật Bản khi nghiên cứu về việc phân loại phương pháp niệm Phật của Đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đã nhận xét tinh tế rằng: “Ngài Trí Húc giải thích niệm Phật theo nghĩa rất rộng, đề xướng tất cả Phật pháp đều quy kết về niệm Phật, trong đó, Ngài cho rằng chấp trì danh hiệu trong Kinh A Di Đàlà pháp môn giản dị nhất, đặc biệt nhất. Pháp này phù hợp cả ba căn thượng, trung, hạ, lại bao gồmcả sự, lý, và đó là phương tiện khéo léo không thể nghĩ bàn” [27].
Gần đây, HT. Thích Thiền Tâm (1924-1992) không chỉ đề cao Trì danh niệm Phật mà còn luận giảirất sâu sắc phương pháp này bao gồm “mười phương thức trì danh” như Phản văn trì danh, Sổ châu trì danh, Tùy tức trì danh,… [28]. Nhìn chung, trên phương diện lý thuyết, việc luận giải về phương pháp thực hành niệm Phật của các đại sư đã cho thấy không hề đơn giản ở câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hay “A Di Đà Phật”. Ở phương diện thực tiễn cho thấy, thực hành PTTĐ cũng không phải thực hành một cách tùy tiện được. Bản thân mỗi Phật tử tự cảm nhận sự khó khăn thế nào để tâm không bị tán loạn, hơn nữa, giáo lý PTTĐ tưởng chừng đơn giản so với các tông phái khác, nhưng qua các bộ luận (sớ, sớ sao, sớ sao diễn nghĩa) cho thấy giáo lý Tịnh độ vô cùngsâu sắc, uyên thâm. Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969) khi nghiên cứu về PTTĐ đã nhận xét xác đáng như sau: “Có người một đời mà chưa biết phép niệm Phật, mà chưa hề niệm Phật một lần nào cả. Phép niệm Phật huyền diệu sâu xa, hiểu rõ không phải dễ, mà tin chắc lại càng khó, trí thức bậc nào cũng vừa, nghiên cứu bao giờ cho tột, thật khó biết hoàn toàn phép niệm Phậtlắm” [29].
Tóm lại, Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ sao nêu rõ: Người niệm Phật được ví như hoa sen trắng trăm cánh hiếm có trên đời. Người niệm Phật không chỉ thấy được Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hộ trì mà còn được chư Phật mười phương hộ niệm. Người niệm Phật không bị tai họagiáng xuống, trừ trường hợp thực hành tu tập thiếu chân thật, đó là công đức của người niệm Phật.
KẾT LUẬN
Tư tưởng nhờ Phật lực để “được cứu độ” không chỉ thổi luồng gió mới vào tâm trí tín đồ Phật giáothời bấy giờ, mà còn tạo nền tảng cho sự hình thành phong trào Phật giáo Đại thừa. Đại sư Mã Minh từng tham gia kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ 4 (khoảng thế kỷ I TCN) đã ca ngợi tư tưởngnày và chính ông đã phát nguyện vãng sinh TGTPCL. Song, phải đến khi các bản dịch kinh điển Tịnh độ từ Phạn văn sang Hán văn [30] thì pháp tu Tịnh độ (PTTĐ) mới hình thành ở Trung Quốc, rồi truyền đến Việt Nam và có ảnh hưởng sâu đậm đến sinh hoạt tu tập tín đồ Phật giáo và người dân.
Qua nội dung các bộ kinh Tịnh độ cho biết về thân thế, hạnh nguyện và thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà khiến cho tín đồ Phật tử có được sự sáng tỏ và hứng khởi tu tập. Nhưng sâu sa hơn là niềm tin Phật A Di Đà, 48 hạnh nguyện và thế giới do Ngài làm giáo chủ được xác lập ngày càng kiên cốtrong tâm mỗi tín đồ Phật tử trên bước đường tu tập.
Sau xa hơn, qua các luận giải của các đại sư cho thấy, Đức Phật A Di Đà vì lợi ích của tín đồ Phật giáo mà tạo lập TGTPCL; đồng thời cũng vì con người mà Phật A Di Đà thiết lập hạnh nguyện để họ khởi phát niềm tin, ước nguyện và thực hành niệm Phật, quy hướng TGTPCL. Đây chính là sự tương hỗ của “người trang nghiêm” và “người được trang nghiêm”. Vì thực hiện một thế giới tốt đẹpkhông chỉ một mình Phật hay Bồ tát mà cần phải có sự đồng lòng của người tu tập mới có thể thực hiện được. Do đó, niềm tin Tịnh độ mang ý nghĩa Phật, Bồ tát và chúng sinh tương hỗ, vun bồi.
Tóm lại, đối với tín đồ theo PTTĐ là phải có niềm tin kiên định rằng, kinh do Đức Phật Thích Cathuyết giảng không hề hư dối và không thể luận bàn. Việc luận giải của các Đại sư đã cho thấy pháp tu này không chấp chặt vào văn tự kinh điển nên có xu hướng mở rộng bằng cách phát triển thêm nhiều phương pháp tu tập khác. Các nhà Phật học, các tín đồ Phật giáo và thậm chí không phải là tín đồ có thể nghiên cứu 48 đại nguyện của Phật A Di Đà là những nguyện độc lập hay liên quan tương hỗ, hoặc chỉ hỗ trợ tín đồ tu tập. Thậm chí, họ xem cõi Tịnh độ trong tâm hay ngoài tâm không quan trọng, mà vấn đề then chốt là pháp tu này đáp ứng được nhu cầu của mọi tín đồ về một đời sống hạnh phúc, an lạc và khi chết được đến một thế giới tốt lành nếu họ thực hành niệm Phậtrốt ráo.
Chú thích:
* Nguyễn Văn Quý – Phòng Nghiên cứu Phật giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[1] Cao Hữu Đính soạn (1996), Na Tiên tỳ kheo kinh, Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế ấn hành.
[2] Junjiro Takakusu (1973), Các tông phái của đạo Phật, Tuệ Sỹ dịch, Ban Tu thư viện Đại học Vạn Hạnh, tr.318
[3] Thích Minh Cảnh chủ biên (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, 8 tập, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.12-13.
[4] Chân Ngôn tông hay Mật tông do Đại sư Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí truyền sang Trung Quốc. Đến Đại sư Bất Không chính thức sáng lập vào thế kỷ 8. Sau đó, vào thế kỷ thứ 9, Đại sư Hoằng Pháp truyền sang Nhật Bản.
[5] Daisetz Teitaro Suzuki (1989), Thiền luận, 3 tập, Trúc Thiên dịch, Phật học viện Quốc tế xuất bản, tr.330.
[6] Quả vị Bất thối chuyển (Sa. Avaivarti), còn gọi là Quả vị A bệ bạt trí, A tỳ bạt trí,… mang ý nghĩanhà tu hành đạt đến quả vị này sẽ chẳng bao giờ bị lui chuyển hay chán mỏi trên con đường tu tậpđến quả vị Phật. Với PTTĐ, quả vị Bất thối chuyển chỉ những người đã được sinh về TGTPCL.
[7] Xin xem thêm: Lý Hiếu Bổn (2012), Lịch sử Tịnh độ tông Trung Quốc, Quảng Hiếu dịch, bản PDF.
[8] Nhị thừa: Tiểu thừa và Đại thừa.
[9] Thanh văn: chỉ những đệ tử xuất gia, mục đích tột cùng là đắc quả A la hán.
[10] Duyên giác: chỉ những người đã giác ngộ thành Phật nhưng không có khả năng giáo hóa.
[11] Bồ tát: chỉ những người có nguyện lực lớn, vừa tự mình giải thoát lại vừa cứu độ chúng sinhkhác (tự giác và tha giác). Có vị Bồ tát phát nguyện thành Phật mới cứu độ chúng sinh như Phật A Di Đà, Phật Dược Sư,… hoặc có vị Bồ tát phát nguyện cứu độ chính sinh mới thành Phật quả như Bồ tát Địa Tạng; song có vị Bồ tát đã thành Phật, song vì thương xót chúng sinh mà hiện thân làm Bồ tát như Bồ tát Quán Thế Âm,…
[12] Vọng Nguyệt Tín Hanh (2014), Lịch sử giáo lý Tịnh độ Trung Quốc, Bản dịch Hoa ngữ: Pháp sưẤn Hải; Bản dịch Việt ngữ: Thích Nữ Giới Niệm; Hiệu đính: Định Huệ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.190-210
[13] Kinh A Di Đà yếu giải, Tuệ Nhuận dịch (2009), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.42
[14] Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Sđd, tr.20
[15] Kinh A Di Đà yếu giải, Tuệ Nhuận dịch (2009), Sđd, tr.30
[16] Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Sđd, tr.41
[17] Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Sđd,tr.46
[18] Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Sđd, tr.85
[19] Viên Anh (2003), Pháp môn niệm Phật, Nguyên Anh dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
[20] Kinh A Di Đà yếu giải, Tuệ Nhuận dịch (2009), Sđd, tr.33
[21] Sự là tất cả các hiện tượng sinh diệt trong thế gian; Lý là bản thể của hiện tượng. Kinh thí dụ ví Sự như là sóng biển còn Lý như là cái ướt của nước. Do đó, nhìn theo hình dáng (Tướng) của sóng thì sẽ có nhiều sai biệt, nhưng theo cái ướt của nước thì tất cả sóng đều cùng một Thể. Do đó, theo kinh Hoa Nghiêm thì Lý Sự Viên Thông, nghĩa là Lý không rời Sự, Sự không rời Lý; Lý tức là Sự, Sự tức là Lý.
[22] Kinh A Di Đà yếu giải, Tuệ Nhuận dịch (2009), Sđd, tr.37
[23] Thích Thiền Tâm (2012), Niệm Phật thập yếu, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.84
[24] Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Sđd, tr.40
[25] Vọng Nguyệt Tín Hanh (2014), Lịch sử giáo lý Tịnh độ Trung Quốc, Sđd, tr.521
[26] Vọng Nguyệt Tín Hanh (2014), Lịch sử giáo lý Tịnh độ Trung Quốc, Sđd, tr.523
[27] Vọng Nguyệt Tín Hanh (2014), Lịch sử giáo lý Tịnh độ Trung Quốc, Sđd,tr.523
[28] Thích Thiền Tâm (2012), niệm Phật thập yếu, Sđd, tr.158-167
[29] Xin xem: Tâm Minh Lê Đình Thám (1934), “Pháp môn Tịnh độ”, Viên Âm, số 6
[30] Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI, kinh điển Tịnh độ được dịch, tiêu biểu là Đại sư Khương Tăng Ngãi dịch Kinh Vô Lượng Thọ; Đại sư La Thập dịch Kinh A Di Đà; Đại sư Phật Đà Bạt Đà La(Giác Hiền) dịch Kinh Tân Vô Lượng Thọ, Quán Phật Tam Muội; Đại sư Trí Nghiêm dịch Kinh Tịnh độ tam muội; Đại sư Cương Lương Da Xá dịch Kinh Quán Vô Lượng Thọ,… Đến thế kỷ thứ 6, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi dịch Vô Lượng Thọ Kinh luận,…
Tài liệu tham khảo:
1. Viên Anh (2003), Pháp môn niệm Phật, Nguyên Anh dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
2. Lý Hiếu Bổn (2012), Lịch sử Tịnh độ tông Trung Quốc, Quảng Hiếu dịch, bản PDF.
3. Thích Minh Cảnh chủ biên (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, 8 tập, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
4. Cao Hữu Đính soạn (1996), Na Tiên tỳ kheo kinh, Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế ấn hành.
5. Junjiro Takakusu (1973), Các tông phái của đạo Phật, Tuệ Sỹ dịch, Ban Tu thư viện Đại học Vạn Hạnh,
6. Daisetz Teitaro Suzuki (1989), Thiền luận, 3 tập, Trúc Thiên dịch, Phật học viện Quốc tế xuất bản.
7. Vọng Nguyệt Tín Hanh (2014), Lịch sử giáo lý Tịnh độ Trung Quốc, Bản dịch Hoa ngữ: Pháp sưẤn Hải; Bản dịch Việt ngữ: Thích Nữ Giới Niệm; Hiệu đính: Định Huệ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
8. Kinh A Di Đà yếu giải, Tuệ Nhuận dịch (2009), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
9. Tịnh độ tam kinh, Thích Đức Nghiệp dịch (2004), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
10. Thích Thiền Tâm (2012), Niệm Phật thập yếu, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
11. Tâm Minh Lê Đình Thám (1934), “Pháp môn Tịnh độ”, Viên Âm, số 6.
- Tag :
- Nguyễn Văn Quý