Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôi đi nghe pháp

02 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12622)
Tôi đi nghe pháp
TÔI ĐI NGHE PHÁP
Tịnh Thủy

Thật là một phước báu lớn lao, không riêng cho mình tôi mà có lẽ cho cả gần một ngàn người Việt Nam và khoảng hơn mười ba ngàn người Hoa Kỳ cùng các sắc dân khác đến nghe pháp và dự lễ Điểm Đạo do Ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chủ trì tại Long Beach Convention Center vào hai ngày thứ Sáu 25-9-2009 và Thứ Bảy 26-09-2009. Nhiều người đến đây từ các tiểu bang miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ, có người đến từ Canada, Alaska và Hawaii. Có thể nói đây là buổi lễ Phật giáo đông nhất từ trước đến nay được tổ chức tại miền viễn Tây Hoa Kỳ.

blank

Trời miền Nam Cali hôm nay không có nhiều nắng nhưng lại có nhiều gió mát từ hướng biển thổi về nên trong lòng ai cũng cảm thấy như tươi hơn, vui hơn sau hai tuần nắng hạ gay gắt. Nhìn hàng người sắp hàng rồng rắn đi vào hội trường mà trong số đó số người Mỹ nhiều hơn người mình tôi mừng thầmPhật giáo đang đi vào lòng người dân bản xứ.

 

Trong hội trường rộng lớn với trên mười ba ngàn người hiện diện, nhưng lại rất yên lặng, không ồn ào như những nơi khác mà tôi đã từng tham dự.

blank

blank

Trên khán đài đức Đạt Lai Lạt Ma được thỉnh ngồi trên bục cao và phía dưới thấp là chư tăng ni Tây Tạng, Hoa Kỳ, Việt Nam và Trung Hoa ngồi xếp bằng hai bên. Trước khi ngài lên tòa đăng đàn thuyết pháp, ông Bob Foster, thị trưởng thành phố biển Long Beach đã ngỏ lời tri ânhân hoan đón chào Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở lại thành phố. Sau đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trao tặng và choàng khăn trắng truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng cho ông Thị Trưởng. 

Khi thốt ra những lời pháp đầu tiên bằng Anh ngữ, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ngài rất sung sướng có mặt tại đây và đã ưu ái nhắc đến Phật tử Việt Nam. Mở đầu thời thuyết pháp Ngài nói về tầm quan trọng của các tôn giáo lớn hiện nay trên thế giới trong đó có Phật Giáo là mang lại tình yêu thương, lòng từ bi, tính bao dung và hoà ái đến với nhân loại, để con người với nhiều truyền thống văn hoá và niềm tin tôn giáo khác nhau như Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ giáo, Phật Giáo… có thể sống chung hài hòa với nhau và cùng nhau cải tiến xã hội. Ngài cũng nhắc nhở Phật Tử Việt Nam, Trung Hoa và Hàn Quốc nên giữ truyền thống Phật Giáo của mình và cố gắng thực hành giáo lý của Đức Phật.

Tiếp theo là phần tụng Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Sankrit do một nhà sư gốc Ấn tụng, rồi tiếng Trung Hoa do một Ni Sư gốc Hoa tụng. Tiếp đến là tụng tiếng Việt và sau cùng là Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng chư Tăng Tây Tạng tụng Bát Nhã Tâm Kinh tiếng Tạng. Khi bài Bát Nhã tâm Kinh tiếng Việt quen thuộc cất lên, lòng tôi tràn ngập niềm hân hoan vui sướng như chưa bao giờ có được. Xin cảm ơn Hoà Thượng trưởng ban tổ chức Khensur Rinpoche Geshe Lobsang Jamyang. 

Sau đó là phần thuyết giảng giáo lý Tứ Diệu Đế, ngài thuyết bằng tiếng Tây Tạng, sau đó được thông dịch ngay sang tiếng Anh bởi vị giáo sư người Tây Tạng. Những người Việt và Trung có thể nghe phần thông dịch bằng tiếng mẹ đẻ của mình qua máy nghe làn sóng FM. 

Trước khi đi vào nội dung đề tài, Đức Đạt lai Lạt Ma đã phác họa sơ qua về bối cảnh tôn giáo trước và sau khi Phật đản sanh ở lục địa Ấn Độ. Đối với Phật Giáo ngài nhấn mạnh, dù từ trước đến nay Phật giáo được phân làm nhiều bộ phái, trường phái và hệ phái nhưng tựu chung tất cả đền có cùng một mục đíchgiải thoát khỏi khổ đau luân hồi, mang lại an lạchạnh phúc đến cho mọi người. Đây là một triết lý chung và thiết yếu của đạo Phật mà người Phật tử cần phải biết và nói cho người khác biết. 

Mở đầu phần nội dung, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói giáo lý Tứ Diệu Đế được coi là một trong những giáo lý nền tảng của đạo Phật. Nội dung là nói lên sự thật hay là chân lý của khổ đau (Khổ), nguyên nhân khổ đau (Tập), sự chấm dứt khổ đau (diệt khổ) và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau (Đạo).

Ngài nói rằng: khổ đau hiện diện trong mọi dạng của chúng sinh hữu tình và tuỳ tâm thức và môi trường xung quanh mà mỗi người cảm nhận về nỗi khổ đau khác nhau. Có người nhìn khổ đau như một bầu trời ảm đảm, cho rằng đời là bể khổ và từ tư tưởng tiêu cực đó dẫn đến thái độ chán chường cuộc đời, không hăng hái học hành, làm việc và phát triển cộng đồng. Có người nhìn khổ đau như là một kinh nghiệm cần phải vượt qua, như là một hệ quả tất yếu do mình đã tạo ra trước đây. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi, ở đó các pháp đều phụ thuộc vào nhau để sinh khởi, không một sự vật nào có tự tánh độc lập hay riêng rẽ, tất cả mọi sự việc đều chỉ là tương tác giữa nhiều nguyên nhânđiều kiện (nhân và duyên), cũng là luật nghiệp báo nhân quả chi phối mọi hành động của con người. Những khổ đau sinh khởi là kết quả của các hành động bất thiện từ thân, khẩu, ý. Ngược lại những niềm vui sướng hạnh phúc sinh khởi là kết quả của các hành động tốt lành cũng từ thân, khẩu, ý của chúng ta. Một khi đã thấu hiểu được lý duyên khởi này, ngài nói: “chúng ta sẽ nhìn mọi sự vật trong tác động của luật nhân quả và thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa khổ đau và nguồn gốc của nó”. “Và khi chúng ta thừa nhận mối quan hệ này, thì cũng thừa nhận rằng chúng ta có khả năng chấm dứt được khổ đau”. 

Giáo lý Tứ Diệu Đế cho biết có hai loại nguyên nhân và kết quả: các nguyên nhân gây ra khổ đau và các nguyên nhân tạo ra hạnh phúc. Và mục đích của giáo pháp này sẽ giúp chúng ta đạt được hạnh phúc và vượt thoát khổ đau nếu chúng ta nỗ lực tu tập hàng ngày. Ngài nhấn mạnh nguyên nhân sâu xa và đầu mối căn bản nhất của khổ đau chính là vô minh, chính vô minh làm sinh khởi các hành vi tác ý, rồi các tác ý này lại làm sinh khởi một đời sống trong thế giới luân hồi khổ đau. Và vô minh ở đây theo ngài nói là vô minh về luật nhân quả

Trước khi kết thúc, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tóm gọn giáo lý Tứ Diệu Đế qua ba điều. Thứ nhất, nhận thức khổ đau là các sự thật không thể tránh khỏi của cuộc đời. Thứ hai, nhận thức nguyên nhân tạo ra khổ đau, mà vô minh là đầu mối căn bản nhất. Thứ ba, giải trừ khổ đau bằng các nỗ lực tu tập theo giáo lý đức Phật để đạt đến đích tận cùng tối thượngNiết Bàn, giải thoát mọi khổ đau luân hồi.

Sau phần giảng thuyết về Tứ Diệu Đế chấm dứt vào giữa trưa, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dành cho báo giới một buổi họp báo riêng để Ngài trình bày một số việc và để cho báo chí có cơ hội đặt một số câu hỏi nhờ Ngài trả lời. Đến 1giờ 30 ngài trở lại hội trường ngồi thiền trước khi bắt đầu buổi Lễ Điểm Đạo Phật A Di Đà.

Do mối quan hệ giữa Tính KhôngDuyên Khởisự giải thoát trong đạo Phật nên trước khi lễ Điểm Đạo bắt đầu ngài đã dành khoảng một giờ để giảng sơ qua về Tính Không (Emptiness), về Vô Ngã (No-self). Ngài nói Tính Không không phải chỉ là một sự trống không thuần tuý hay phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại. Tính Không theo ngài nên được hiểu trong ý nghĩabản chất phụ thuộc lẫn nhau của thực tại: “Chính vì có nguồn gốc duyên khởi mà sự vật hoàn toàn không có sự tồn tại độc lập.” Nhờ hiểu được điều này mà chúng ta biết rằng các cảm xúcý tưởng gây phiền não khổ đau trong tâm ta khởi lên từ vô minh làm chúng ta hiểu lầm như là thật là có và tồn tại một cách độc lập. Thật ra, chúng vốn là không thật, chỉ là duyên khởi, là Tính Không. Tính Không này, theo ngài phải được phát triển qua việc thực hành hai pháp thiền định samatha và thiền quán vipassana, tức là sự kết hợp (union) giữa hai trạng thái nhất tâm (single mind) và sự quán chiếu nội tâm. Điều này chỉ dễ dàng thành tựu khi hành giả luôn nghiêm trì giới hạnh. Đó là nói một cách tóm gọn về ba pháp môn tu tập của Phật giáo là Giới, Định và Tuệ. 

Một điều quan trọng nữa, ngài nhấn mạnhlòng từ bi mà toàn bộ giáo pháp của đức Phật đặt nền móng trên đó. Chính vì lòng từ bi mà chúng ta mới có thể phát triển tâm nguyện tìm cầu sự giác ngộ để giúp đỡ muôn loài chúng sinh đang ngụp lặn trong khổ đau. Điều này gọi là phát tâm Bồ đề (generation of bodhichitta), nghĩa là tâm luôn hướng về chúng sinh và vì chúng sinh và (mình) ước muốn mãnh liệt tìm cầu giác ngộ viên mãn để cứu vớt chúng sinh, mang lại hạnh phúclợi lạc cho chúng sinh. Những ai muốn như thế có thể tham dự vào một nghi lễ phát tâm Bồ Đề để phát nguyện lý tưởng Bồ tátthực hành lý tưởng này qua ba điều giới luật (tam tụ tịnh giới): thứ nhất là ngăn ngừa hết thảy mọi điều bất thiện; thứ hai là quyết tâm thành tựu hết thảy các điều lành; và thứ ba là luôn giúp đỡ muôn loài chúng sinh.

Tiếp theo sau đó là lễ phát tâm Bổ Đề cho những ai muốn phát nguyện thực hành con đường lý tưởng Bồ tát qua ba điều giới nêu trên và cùng phát nguyện:

Cho đến khi hư không còn tồn tại
chúng sinh còn chịu đựng khổ đau,
Nguyện cho tôi còn tồn tại,
Để xóa tan nỗi khổ đau trên thế gian này.

Sau lễ phát tâm Bồ Đề, Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trì Lễ Điểm Đạo Phật A Di Đà (Amitabha Buddha Initiation) và qua ngày hôm sau ngài sẽ chủ trì Lễ Điểm Đạo Phật Dược Sư (Medicine Buddha Initiation). 

(Xem tiếp phần hai: Tôi Đi Dự Lễ Điểm Đạo
 Tịnh Thủy

 
 

Dưới đây là một số hình ảnh ghi nhận phía ngoài hội trường
của hai phóng viên Việt Báo (Tâm Huy) và nhật báo Orange County Register:

blank
Long Beach Convention Center nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp

blank

blank
Sắp hàng từ bãi đậu xe

blank

blank

Sắp hàng từ bãi đậu xe
blank

Thầy Thích Chơn Thành cười sung sướng 

blank

Thầy Thích Chơn Thành đang lắng nghe ký gỉa Đỗ Dũng phỏng vấn

blank
Đang qua trạm kiểm soát rà vũ khí như ở các phi trường 

blank

Nhân viên ban tổ chức LB. Convention Center

blank

Các tình nguyên viên trong ban tổ chức chùa Tây TạngGeden Shoeling

Dưới đây là một số hình ảnh ghi nhận bên trong hội trường

blank
Một góc hội trường Long Beach Convention Center

blank
Đức Đạt Lai Lạt Ma đăng đàn thuyết pháp  

blank
blank

Đức Đạt Lai Lạt Ma đang thuyết pháp về Tứ Diệu Đế

blank

Đức Đạt Lai Lạt Ma trao khăn trắng truyền thống cho một số Phật tử VIP.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22074)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27468)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37849)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20670)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14493)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19560)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14416)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20911)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28621)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27188)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21897)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21424)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26181)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21572)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23375)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23154)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19794)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22890)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21106)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19940)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15387)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22505)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22819)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30450)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33172)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35498)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27032)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17716)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24317)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14636)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant