Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11515)
Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

THỬ BÀN NGÀY XUÂN

ĐỐT VÀNG MÃ SỚ SAO, NÊN HAY KHÔNG?
Lê Văn Cơ

Hàng năm bà con nhân dânPhật tử chúng ta thường hay có tục lệ đốt vàng mã, sớ sao vào các dịp cúng giỗ tiên tổ hoặc đi lễ bái ở đình, đền, chùa, miếu, nhất là vào những ngày lễ lớn như Rằm tháng Giêng, thanh minh, vào hè, ra hạ, Rằm tháng Bảy và Tết Nguyên đán...

Xung quanh việc này có biết bao lý do và mỗi người giải thích một lẽ khác nhau: Có người nói rằng vì trần sao âm vậy, nên chúng tôi đốt để gửi cho người âm phủ được dùng, có người nói rằng những người đi trước đều làm như vậy, nên chúng tôi cũng làm theo để cho yên tâm. Hoặc có người vì thấy bà con hàng xóm mua sớ đốt thì mình cũng phải đốt kẻo bị họ chê trách là mình không thương các cụ. Lại còn có người bảo rằng tại vì con vụng khấn vái nên phải nhờ tờ vàng cánh sớ tâu giùm lên Phật Thánh các Ngài mới chứng cho...

Vậy thì lẽ thực hư của vấn đề này ra sao? Quan điểm của nhà Phật về vấn đề này như thế nào? Là người ngoại đạo, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều cùng quý bà conPhật tử gần xa như sau:

Thứ nhất là việc đốt mã: Việc này xuất phát từ Trung Quốc, các vua chúa phong kiến thời xưa, khi chết họ cho chôn theo mình vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ thậm chí cả vợ con nữa để mong được tiếp tục cuộc sống vương giả ở thế giới bên kia. Việc làm này của tầng lớp vua chúa, dần dần lan truyền rộng đến dân chúng và trở thành một tập tục. Song đa số dân chúng đền nghèo khó, lấy đâu ra vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ để chôn theo. Từ đó mới nảy sinh ra việc làm hình nhân giấy thế mạng, làm vàng mã thay cho của cải thật. Rồi từ việc phải chôn các thứ đồ theo cùng có nhiều phiền phức, lại hao tốn đất đai canh tác, mới dần dần chuyển sang hình thức đốt hoá cho người đã mất, với niềm tin rằng họ sẽ hưởng dụng được những thứ đó. Song thật sự họ có dùng được hay không? Như chúng ta đã biết, dù chôn theo vàng bạc của cải thật thì khi khai mộ cải táng, thấy rõ các đồ vật này đâu vẫn hoàn đấy có chăng thì chúng bị hư mòn bởi thời gian mà thôi, chứ đâu phải do người chết lấy tiêu dùng. Của cải thật mà còn như vậy, huống chi là đồ mã, lại còn đem đốt hoá thành tro tàn mây khói.

Một sự thật rất vô lý hiện nay là chúng ta đem đốt ôtô, xe máy, đốt ti vi, tủ lạnh để cho người đã mất dùng, song họ sẽ dùng thế nào đây? Chúng ta đốt ô tô, xe máy mà chẳng đốt xăng dầu, đốt ti vi, tủ lạnh mà chẳng đốt điện xuống thì thử hỏi làm sao mà họ có thể dùng được? nếu bảo trần sao âm vậy thì chúng ta phải làm cho đầy đủ các thứ đó mới được. Lại còn một thực tế nữa là ông bà tổ tiên chúng ta xưa kia đi chân đất, guốc mộc, ngồi xe ngựa, xe trâu, xe đạp có khi còn chưa biết đi huống chi là ôtô, xe máy Do đó nếu muốn thì chúng ta phải đốt thêm sách hướng dẫn sử dụng, bộ luật giao thông và cả bằng lái xe nữa chứ? Chúng tôi nói vậy, nếu mấy nhà làm hàng mã mà nghe được thì họ sẽ phất to! Có thể họ sẽ tiếp tục làm thêm ra đủ các thứ lệ bộ nói trên và yêu cầu bà con phải mua cho đủ mới được. Như vậy thì chúng ta bị mắc lừa bởi cái hư tưởng trần sao âm vậy đó.

Thứ hai là việc đốt tiền âm phủ, nó còn phi lý hơn cả việc đốt mã nói trên nữa. Sự thực trên thế gian chúng ta, tiền nước nào thì phải do chính phủ nước đó in ấn phát hành mới được coi là hợp pháp. Vậy thì việc trần gian chúng ta in tiền vàng mã, rồi phát hành xuống âm phủhợp pháp hay bất hợp pháp đây? Lỡ tiền chúng ta in ra chẳng đúng với tiền âm phủ (giả dụ là ở âm phủ có tiêu tiền) thì ông bà chúng ta sẽ bị vi phạm luật pháp âm phủ vì tội tiêu tiền giả phải không? Còn nếu như quả thật hàng năm, vua Diêm Vương có lên trần gian vào từng nhà chủ làm vàng mã đặt in tiền cho âm phủ thì chúng ta cũng khả dĩ tin được việc này. Song chúng tôi tin chắc, chẳng có ông chủ hàng mã nào được Diêm Vương đến nhà mình đặt in tiền cả. Trên thực tế các nhà sản xuất hàng mã đều tuỳ theo thị trường mà họ in ấn.

Những năm về trước, đồng tiền âm phủ có in hình vua Diêm Vương (mặc dù họ chẳng biết mặt vua Diêm Vương ra làm sao), gần đây, khi kinh tế mở cửa, thấy đồng đô la có giá trị thị họ lại đổ xô vào in tiền đô la âm phủ, và tức cười nhất là đồng tiền không in hình vua Diêm Vương mà lại là hình ông Tổng thống Mỹ. Chưa biết chừng sắp tới họ còn in tiền Bảng Anh, tiền EURO để bán cho bà con nữa đấy. Trong khi đó ở ngay các nước Châu âu, Châu Mỹ và nhiều nước khác nhân dân không có tục đốt vàng mã thì không biết thân nhân của họ tiêu bằng tiền gì hay họ phải chịu mình trần nhịn đói hoặc sang nước ta để làm thuê cho ông bà, ông vải chúng ta sao? Điều này chúng ta thấy có phi lý hay không? Dưới đây chúng tôi xin lược dẫn trong sử sách nói về việc này như sau:

Sách Pháp Uyển Châu Lâm có ghi: “Từ trước đời Hậu Hán, trong việc tang ma vẫn dùng tiền bạc thật để chôn theo người chết. Đến đời Đường, ông Vương Dư đã nghĩ ra cách dùng tiền bạc bằng giấy để thay thế cho...” Nghề làm vàng mã đã một thời phát triển rất mạnh, song không bao lâu, người Trung Hoa lại có ý chán bỏ vì chẳng thấy hiệu nghiệm gì cả. Vì vậy nghề nghiệp gia truyền của họ Vương Dư dần phải bị mai một. Bởi thế nên con cháu của Vương cố hết sức tìm mưu kế để chấn hưng lại nghề hàng mã của mình. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác chép: “ông Vương Luân là con cháu của Vương Dư thời vua ấn Đế nhà Hán... đã lập mưu bằng cách bảo người bạn thân giả bệnh gần chết rồi cho ai nấy đều biết. Chừng bốn năm bữa, ông loan tin người bạn đó đau bệnh đã chết. Sau đó khâm niệm, bỏ vào quan tài (quan tài có lỗ trống để người bạn vẫn thở được). Đến ngày làm lễ di quan đi chôn, ông Vương Luân tổ chức lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, lại làm một hình nhân thế mạng cùng những đồ mã như tiền vàng, nhà cửa, áo quần... ông Vương Luân tự làm lễ để cầu cho người bạn thân đó được may ra sống lại. Cúng tế xong ông đốt hết vàng mã, giấy tiền hình nhân thế mạng. Khi đốt xong thì linh nghiệm thay! Quan tài tự nhiên rung động, ai nấy mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra, người bạn thân của Vương Luân quả thật đã sống lại được. Anh ta liền đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất và thuật lại chuyện cho công chúng nghe rằng: “Chư Vị âm Thần đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng liền thả hồn về dương thế, nên nay tôi được sống lại, cũng nhờ ông Vương Luân đốt vàng mã và hình nhân thế mạng. Mọi người ai cũng tin răm rắpsự thật, nên đốt mã của Vương Luân từ đó được hưng thịnh trở lại. Sau này do sự tranh giành quyền lợi, nên chính người bạn thân của Vương Luân đã tiết lộ âm mưu xảo trá đó của Vương Luân. Nước Việt Nam chúng ta, dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc cả ngàn năm, nên những hủ tục này cũng dần dần tiêm nhiễm và ăn sâu trong quần chúng nhân dân. Tệ hơn nữa, một số người hành nghề mê tín dị đoan (ông đồng, bà cốt) đã kết hợp với những người cung cấp vàng mã, lợi dùng lòng tin của mọi người giả nói lời của thần thánh, vong linh, đòi phải đốt vàng mã, càng khiến cho bà con chúng ta chìm sâu vào lệ tục này.
Qua những điều chúng tôi trình bày trên đây thì bà con đã thấy rõ nguồn gốc của việc đốt vàng mã và những điều dối trá, phi lý như vậy, liệu chúng ta có còn tin được nữa hay không? Thế còn theo quan điểm của đạo Phật thì sao?

Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi, trong khoảng 49 ngày, thần thức phải đi tái sinh vào một trong sáu cõi. Ba cõi trên là cõi Trời, Người, thần Atula còn ba cõi dưới là Địa Ngục, Ngã QuỷSúc Sinh. Hai cõi Trời và thần Atula thì không dùng đến tiền bạc, vì do phúc báo nhiều nên họ nghĩ đến thứ gì liền có thứ ấy hiện ra. Hai cõi Ngã QuỷĐịa Ngục thì luôn bị hành hạ khổ sở chẳng thể ngơi để mà có thể lái xe ô tô ra ngân hàng lĩnh tiền dương gian gửi xuống được. Nếu như phải tái sinh vào loài Súc Sinh (làm con lợn chẳng hạn) thì chúng ta đốt quần áo, xe cộ, chúng ta có thấy chú lợn nào mặc áo mới cưỡi xe máy đi chơi được không? Còn nếu tái sinh làm Người thì chúng ta rõ biết chưa từng có ai nhận được thứ hàng mã mà người ta đốt cúng cho mình cả. Sự thật thì cảnh giới của mỗi loài một khác, tuỳ theo nghiệp thức biến hiện (chẳng hạn loài người thở bằng không khí, loài cá thở bằng nước, các vị trời thấy nước là Ngọc lưu ly, loài ngã quỷ thấy nước là than hồng)... Do đó chúng ta không thể lấy cảnh giới loài người mà áp đặt cho các cảnh giới khác cũng phải như vậy. Cho nên câu nói trần sao âm vậy chẳng thể đúng với lời Phật dậy. Theo trong các kinh Địa Tạng, Vu Lan, Đại Phương Tiện Phật Báo ân và kinh Bồ Tát Giới thì muốn giúp cho người đã mất được lợi ích. Những người còn sống nên làm những việc lợi ích như thiết trai cúng đường cho Tăng, cúng đường Tam Bảo, ấn tống kinh điển, bố thí cho kẻ nghèo khổ, không sát sinh mà nên mua vật về phóng sinh, tụng kinh niệm Phật, thỉnh chư Tăng thuyết Pháp Đại Thừa và các việc công đức rồi đem hồi hướng những công đức đó cho người đã mất thì chắc chắn họ sẽ được hưởng, được tiêu trừ tội chướng, được tái sinh vào cõi lành, hoặc có thể siêu sinh Tịnh độ. Còn việc đốt giấy tiền vàng mã thì không thể giúp ích gì cho thân nhân của chúng ta được. 

Bây giờ đến việc viết sớ. Việc làm này xuất phát từ việc trước kia dân chúng thưa trình lên quan hoặc đế tấu với vua thường dùng sớ dùng biểu. Rồi từ đó, chúng ta liền đem cách thức này vào trong việc tế lễ cầu cúng với Phật Thánh và cho rằng như thế mới thực là trịnh trọng kính cẩn và Phật Thánh mới chứng cho. Song sự thật có phải vậy không?

Xét kỹ ra, khi chúng ta làm việc này, thì vô tình chúng ta lại xem thường Phật Thánh rồi. Vì sao vậy? Bởi vì đã gọi là Phật, là Thánh thì các Ngài đều có sáu phép thần thông, trong đó có phép tha tâm thông (ai suy nghĩ mong cầu gì, các Ngài đều biết rõ hết) và thiên nhãn thông (thấy suốt không chướng ngại). Vậy đâu có phải đợi chúng ta viết ra lá sớ, các Ngài mới biết chúng ta kêu cầu gì. Hoặc phải khấn cho hay, cho giỏi các Ngài mới cảm thông. Thế mà chúng ta lại đua nhau đi thuê người khấn, thuê viết sớ, có khi còn bị mấy bác viết sớ Nho ép giá cao hơn sớ Quốc Ngữ nữa chứ. Đã vậy, nhỡ mà mấy bác sớ Nho chưa rành mặt chữ, lại viết chữ Tác thành chữ Tộ thì thật là oan uổng cho chúng ta làm sao? Đức Phật dạy về nhân duyên nghiệp quả, gieo thiện nhân thì được thiện quả, tạo ác nghiệp thì phải thọ ác báo. Bởi vậy nên, khi chúng ta khởi thiện tâm đi lễ Phật, là chúng ta đã được Phật chứng tâm và có phúc rồi, đâu phải cần đến tờ vàng cánh sớ.

Theo con số ước tính, những năm gần đây mỗi năm chúng ta đã đốt đi một lượng vàng mã, sớ sao trị giá hàng chục tỷ đồng. Thật đáng buồn là trong khi chúng ta mất tiền mua giấy đốt đi, thì con em chúng ta đang thiếu sách vở học hành, không những thế, việc đốt vàng mã còn gây ô nhiễm môi trường, làm xấu đi cảnh quan chốn thờ tự tôn nghiêm và có một số nơi đã gây ra hoả hoạn làm cháy cả chợ, cháy cả đền chùa.

Qua những điều trình bày trên đây, chúng ta đã thấy rõ lẽ thực hư và sự lợi hại của việc đốt vàng mã sớ sao rồi. Vậy nên chúng tôi khuyên bà con nhân dânPhật tử khi đi lễ bái đền chùa hoặc cúng giỗ tổ tiên thì cốt nhất là ở tâm thành kính và lòng tri ơn, chẳng nên hao tiền tốn của mua vàng mã sớ sao đốt đi một cách vô ích nữa. Thay vào đó, chúng ta làm những việc công ích hoặc từ thiện xã hội thì thật là phúc đức biết bao. Xin cầu chúc cho quý vị một năm mới gặp nhiều may mắn, an vui và hạnh phúc.

Lê Văn Cơ
Tạp Chí VHTT&DL Vĩnh Phúc
Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13081)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11109)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12595)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11075)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31840)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11715)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10565)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10178)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20559)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 13815)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15155)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 15327)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12843)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15071)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 14612)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 19930)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 20322)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 21649)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 27522)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20320)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23087)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18928)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16360)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17963)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20989)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17393)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14500)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16044)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17513)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22026)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15130)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13522)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14391)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15421)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15025)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12738)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13381)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27430)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12552)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13226)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 12432)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15447)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12885)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12220)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13226)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21698)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11298)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 15112)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14965)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46227)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 11049)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 19995)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14411)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13546)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13732)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13069)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13427)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant