Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Thiền sư Lương GiớiĐộng Sơn khai Tổ tông Tào Động

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 26858)
01. Thiền sư Lương Giới ở Động Sơn khai Tổ tông Tào Động

THIỀN SƯ TRUNG HOA 
HT Thích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨ NĂM SAU LỤC TỔ

A. Phái Hành Tư
1. THIỀN SƯ LƯƠNG GIỚI
Động Sơn - Khai Tổ Tông Tào Động - (807-869)

Sư họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhã đến câu "vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý", Sư chợt lấy tay rờ mặt hỏi thầy:

- Con có mắt, tai, mũi, lưỡi cớ sao trong kinh nói không? Ông thầy kinh lạ, bảo:

- Ta chẳng phải thầy của ngươi.

Ông giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc.

*

du phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:

- Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?

Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư thưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.

*

Kế đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:

- Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói "vô tình thuyết pháp", con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?

Qui Sơn bảo: - Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia. 

Sư thưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.

Qui Sơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?

Sư thưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.

Qui Sơn bảo: - Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.

Sư thưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?

Qui Sơn bảo:

- Ở Lễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.

Sư bèn từ Qui Sơn thẳng đến Văn Nham.

*

Đến Vân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?

Vân Nham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.

Sư hỏi:- Hòa thượng nghe chăng?

Vân Nham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.

Sư thưa:- Con vì sao chẳng nghe?

Vân Nham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?

Sư thưa:- Chẳng nghe.

Vân Nham bảo:

-Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?

Sư hỏi:-Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?

Vân Nham bảo:

- Đâu không thấy kinh Di-đà nói: nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp?

Ngay câu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:

 Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

 Vô tình thuyết pháp bất tư nghì

 Nhược tương nhĩ thính chung nan hội

 Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.

DỊCH: Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

 Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì

 Nếu lấy tai nghe trọn khó hội

 Phải đem mắt thấy mới liễu tri.

Sư thưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.

Vân Nham hỏi:- Ngươi từng làm gì?

Sư thưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.

Vân Nham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?

Sư thưa:- Hoan hỉ thì chẳng không, như trong đống rác lượm được hòn ngọc sáng.

*

từ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?

Sư thưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?

Văn Nham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Phải đi về quê chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Bao lâu trở lại?

Sư thưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.

Vân Nham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.

Sư thưa:- Khó được chẳng thấy nhau.

Sắp đi, Sư lại thưa:

- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi tả được hình dáng của Thầy chăng, con phải đáp làm sao?

Vân Nham lặng thinh hồi lâu, bảo: - Chỉ cái ấy.

trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:

- Xà-lê Lương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.

Sư vẫn còn hồ nghi.

*

Sau, Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:

 Thiết kỵ tùng tha mít

 Điều điều dữ ngã sơ

 Ngã kim độc tự vãng

 Xứ xứ đắc phùng cừ.

 Cừ kim chánh thị ngã

 Ngã kim bất thị cừ

 Ưng tu nhậm ma hội

 Phương đắc khế như như.

DỊCH: Rất kỵ tìm nơi khác

 Xa xôi bỏ lảng ta,

 Ta nay riêng tự đến

 Chỗ chỗ đều gặp va.

 Và nay chính là ta

 Ta nay chẳng phải va

 Phải nên như thế hội

 Mới mong hợp như như.

Sư đến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúng có câu:

 Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

 Phật giới, đạo giới bất tư nghì.

DỊCH

 Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

 Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.

Sư hỏi:

- Phật giới, đạo giới chẳng hỏi, người nói Phật giới đạo giới là gì? Chỉ xin nói một câu?

Thủ tọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chẳng nói mau?

Thủ tọa bảo:- Nói chẳng được.

Sư thưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà nói chẳng được??

Thủ tọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng dẫn kinh.

Thủ tọa hỏi:- Kinh nói thế nào?

Sư thưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).

Thủ tọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.

Sư thưa:-Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?

Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọi Sư là hỏi chết Thủ tọa.

*

Đến cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840), Sư trụ núi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnh hành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.

Một hôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:

- Hòa thượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?

Sư đáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.

Tăng hỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dường làm gì?

Sư bảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.

Tăng hỏi:

- Hòa thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?

Sư bảo:

- Ta chẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp, chỉ trọng chẳng vì ta nói pháp.

Sau, Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là: 1) Chánh trung thiên. 2) Thiên trung chánh. 3) Chánh trung lai. 4) Thiên trung chí. 5) Kiêm trung đáo. Có bài tụng ngũ vị:

 Chánh trung thiên

 Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền

 Mạc quái tương phùng bất tương thức

 Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.

 Thiên trung chánh

 Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh

 Phân minh địch diện biệt vô chân

 Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.

 Chánh trung lai

 Vô trung hữu lộ cách trần ai

 Đản năng bất xúc đương kim húy

 Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.

 Thiên trung chí

 Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị

 Hảo thủ du như hỏa lý liên

 Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí

 Kiêm trung đáo

 Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa

 Nhân nhân tận dục xuất thường lưu

 Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.

DỊCH

 Chánh trung thiên

 Đêm tối canh ba trăng rọi hiên

 Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết

 Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.

 Thiên trung chánh

 Mất sáng lão bà tìm cổ kính

 Rõ ràng đối diện đâu riêng chân

 Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.

 Chánh trung lai

 Đường cái trong không cách trần ai 

 (bụi bặm)

 Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ

 Đã thẳg tiền triều cắt lưỡi tài.

 Thiên trung chí

 Hai kiếm đua nhau cần gì tránh

 Tay khéo vẫn như lò lửa sen

 Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí

 Kiêm trung đáo

 Chẳng rơi không, có ai dám hòa

 Người người trọn muốn vượt dòng thường

 Tan hiệp trở về ngồi trong tro.

[Đại ý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉ cho Dụng, Sắc, Sự.

Chánh trung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng. Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cái thể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụng đủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũ vị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứ của Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tương đương.

Thiên trung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cái dụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hành mà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵn trong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không, chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừakiến đạo.

Chánh trung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyên khởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơi đây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thân Bồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công, tương đương.

Thiên trung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tức là vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đến đây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bát địa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.

Kiêm Trung đáo: - Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tức là vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quả tột cùng tối thượng.

Theo Tào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vịsắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên, bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới, thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phải nhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền, chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]

thượng đường dạy chúng:

- Khi Hướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi Cộng Công làm sao? Khi Công Công làm sao?

Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?

Sư đáp:- Khi ăn cơm thì sao?

- Thế nào là Phụng?

- Khi trái thì sao?

- Thế nào là Công?

- Khi buông cuốc thì sao?

- Thế nào là Cộng Công? 

- Chẳng được sắc.

- Thế nào là Công Công?

- Chẳng chung.

Sư nói tụng:

Hướng

 Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu

 Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu

 Hữu thời náo thị đầu biên quá

 Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.

Phụng

 Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy

 Tử qui thanh lý khuyến nhân qui

 Bách hoa lạc tận đề vô tận

 Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.

Công

 Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân

 Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân

 Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại

 Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.

Cộng công

 Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,

 Sơn tự cao hề thủy tự thâm

 Vạn biệt thiên sai minh để sự

 Chá cô đề xứ bách hoa tân.

Công Công

 Đầu giác tài sanh dĩ bất kham 

 Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm

 Điều điều không kiếp vô nhân hức

 Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.

DỊCH

Hướng

 Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu

 Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu

 Chợ ồn có lúc đi qua thẳng

 Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.

Phụng

 Tắm sạch máu me đấy là ai?

 Ngươi trong âm hưởng khuyến người về

 Trăm hoa rụng hết, ca không bặt

 Lại đến núi sâu hót mải mê.

Công

 Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại

 Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân

 Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn

 Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.

Cộng Công

 Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen

 Núi tự cao chừ nước tự sâu

 Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ

 Chá cô vừa hót trăm hoa cười.

Công Công

 Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên

 Đem tâm cầu Phật thật hư hèn

 Xa xôi không kiếp nào ai biết

 Chịu hướng về nam năm mươi ba

*

Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trước mặt Sư. Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?

Tuyết Phong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.

Sư hỏi:- Sao đem đến đây được?

Tuyết Phong đáp không được.

*

Có vị Tăng hỏi:

- Luôn luôn siêng lau chùi, vì sao không được y bát? Chẳng biết người nào nên được?

Sư bảo:- Người không vào cửa được.

Tăng thưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?

Sư bảo:

- Tuy nhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nói thẳng rằng "xưa nay không một vật", vẫn chưa nên được y bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nên có một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?

Tăng nói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, một chuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:

- Xà-lê sao không nói chuyển ngữ ấy trước?

Có vị Tăng hỏi:

- Bình thường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo), chưa biết thế nào là đường chim?

Sư bảo:- Chẳng gặp một người.

Tăng thưa:- Thế nào là đi?

Sư bảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.

Tăng thưa:- Như đi đường chim, phải là "bản lai diện mục" chăng?

Sư bảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?

Tăng thưa:- Chỗ nào là con điên đảo?

Sư bảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?

Tăng thưa:-Thế nào là bản lai diện mục?

Sư bảo:- Chẳng đi đường chim.

*

Ban đêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏi xong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăng vừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:

- Lấy hai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.

Vị Tăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tất cả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.

Đến ba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:

- Đi vui vẻ!

Lúc đó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:

- Vị Tăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?

Sư bảo:

- Y chỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.

Vị Tăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. Tuyết Phong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:

- Tuy nhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.

*

thượng đường dạy chúng:

- Lại có người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?

Chúng đều không đáp, Sư lại bảo:

- Nếu chẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau. Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cần phải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!

*

Tào Sơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:

- Ta ở chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng "Bảo cảnh tam-muội" là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi. Lời rằng:

 Như thị chi pháp Phật Tổ mật phó

 Nhữ kim đắc chí Nghi thiện bảo hộ.

 Ngân uyển thạnh tuyết Minh nguyệt tàng lộ

 Loại chi phất tề Hỗn tắc tri xứ.

 Ý bất tại ngôn Lai cơ diệc phó

 Động thành sào cựu Sai lạc cố trữ.

 Bối xúc câu phi Như đại hỏa tụ

 Đản hình văn thể Tức thuộc nhiễm ô.

 Dạ bán chánh minh Thiên hiểu bất lộ

 Vị vật tác tắc Dụng bạt chư khổ.

 Tuy phi hữu vi Bất thị vô ngữ

 Như lâm Bảo cảnh Hình ảnh tương đổ.

 Nhữ bất thị cừ Cừ chánh thị nhữ

 Như thế anh nhi Ngũ tướng hoàn cụ.

 Bất khứ bất lai Bất khởi bất trụ

 Bà bà hòa hòa Hữu cú vô cú.

 Chung bất đắc vật Ngữ vị chánh cố

 Trùng ly lục hào Thiên chánh hồi hỗ.

 Điệp nhi vi tam Biến tận thành ngũ

 Như trị thảo vị Như kim cang Sử.

 Chánh trung diệu hiệp Sao xướng song cử.

 Thông tông thông đổ Hiệp đới hiệp lộ

 Thố nhiên tắc cát Bất khả phạm ngỗ.

 Thiên chân nhi diệu Bất thuộc mê ngộ

 Nhân duyên thời tiết Tịch nhiên chiêu trước.

 Tế nhập vô gian Đại tuyệt phương sở

 Hào hốt chi sai Bất ưng luật lữ.

 Kim hữu đốn tiệm Duyên lập tông thú

 Tông thú phân hỷ Tức thị qui củ.

 Thông thông thú cực Chân thường lưu chú 

 Ngoại tịch trung diêu Hệ câu phục thử.

 Tiên Thánh bi chi Vị pháp đàn độ

 Tùy kỳ điên đảo Dĩ tri vi tố.

 Điên đảo tưởng diệt Khẳng tâm tự hứa

 Yếu hiệp cổ triệt Thỉnh quân tiền cổ.

 Phật đạo thùy thành Thập kiếp quán thọ

 Như hổ chi khuyết Như mã chi chú.

 Dĩ hữu hạ liệt Bảo kỷ trân ngự

 Dĩ hữu kinh dị Ly nô bạch cổ.

 Nghệ dĩ xảo lực Xạ trúng bách bộ

 Tiên phong tương trị Xảo lực hà dư.

 Mộc nhân phương ca Thạch nữ khởi vũ

 Phi tình thức đáo Ninh dung tư lự.

 Thần phụng ư quân Tử thuận ư phụ

 Bất thuận phi hiếu Bất phụng phi phụ.

 Tiềm hành mật dụng Như ngu như lỗ

 Đản năng tương tục Danh chủ trung chủ.

DỊCH

 Pháp như thế ấy Phật Tổ thầm trao

 Nay ngươi được đó Nên khéo giữ gìn.

 Chén bạc đựng tuyết Trăng sáng che cò

 Loại đó chẳng đồng Lẫn thì biết chỗ.

 Ý chẳng ở lời Cơ đến cũng đến

 Động thành hang ổ Sai rơi đoái giữ.

 Tránh chạm đều lỗi Như đống lửa lớn

 Chỉ bày màu vẻ Liền thuộc nhiễm ô.

 Nửa đêm sáng tỏ Trời sáng chẳng bày

 Vì vật làm phép Dùng nhổ các khổ.

 Tuy chẳng hữu vi Chẳng phải không nói

 Như đến gương báu Hình bóng thấy nhau.

 Ngươi chẳng phải y Y chính là ngươi

 Như trẻ trong nôi Năm tướng đầy đủ.

 Chẳng đi chẳng lại Chẳng dậy chẳng đứng

 Tu oa! Tu oa! Có câu không câu

 Trọn chẳng được vật Vì lời chưa rõ.

 Lại lìa sáu hào Thiên chánh hồi hỗ

 Chồng chất làm ba Biến khắp thành năm

 Như vị cô trị Như sử Kim Cang.

 Chánh trung khéo gộp Nhịp xướng đồng cử

 Thông tông thông đồ Gộp hẹp gộp rộng

 Yên lặng thì tốt Chẳng nên phạm nghịch.

 Thiên chân mà diệu Chẳng thuộc mê ngộ

 Thời tiết nhân duyên Lặng lẽ rành rõ.

 Nhỏ vào chẳng hở Lớn tột chỗ nơi

 Sai trong mảy may Chẳng hợp luật lữ.

 Nay có đốn tiệm Duyên lập tông thú

 Tông thú phân vậy Tức là qui củ

 Tông không thú tột Chân thường trôi chảy.

 Ngoài yên trong loạn Cột ngựa dẹp chuột

 Thánh trước thương đó Vì làm pháp thí.

 Tùy kia điên đảo Lấy nâu làm trắng

 Tưởng điên đảo diệt Là tâm tự nhận.

 Cốt hiệp vết xưa Xin xem xưa trước

 Phật đạo sắp thành Mười kiếp quán cây.

 Như hang của cọp Như trạm của ngựa

 Do có thấp kém Bàn báu xe quí.

 Do có sợ hãi Mèo nhà bò trắng

 Nghề do sức kéo Trăm bước bắn trúng.

 Tên nhọn sắp chạm Sức khéo làm gì?

 Người gỗ vừa ca Gái đá đứng múa

 Tình thứ chẳng đến Đâu cho suy nghĩ.

 Thần phụng nơi vua Con thuận nơi cha

 Không thuận chẳng hiếu Không phụng chẳng phụ.

 Làm thầm dụng kín Như ngu như ngốc

 Chỉ hay tiếp nối Gọi chủ trong chủ.

*

Sư lại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếu cần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy). Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trong biển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về và bỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu, giỏi nghiên cứu mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau, trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéo biết.

Sư lại làm ba bài kệ cương yếu:

 1.- Sao xướng câu hành

 Kim châm song tỏa bị

 Hiệp lộ ẩn toàn cai

 Bảo ấn đương phong diệu

 Trùng trùng cẩm phùng khai.

 2.- Kim tỏa huyền lộ

 Giáo hỗ minh trung ám

 Công tề chuyển giác nan

 Lực cùng vong tiến thối

 Kim tỏa võng man man.

 3.- Bất đọa phàm thánh

 Sư lý câu bất thiệp

 Hồi chiếu tuyệt u vi

 Bối phong vô xảo chuyết

 Điện hỏa thước nan trung.

DỊCH

 1.- Nhịp xướng đồng hành

 Chìa vàng hai khóa đủ

 Ẩn bày thảy bao trùm

 Ấn báu tài chống gió

 Lụa gấm đứt đường khâu

 2.- Lưới vàng bủa đường huyền

 Lẫn nhau sáng trong tối

 Chuyển giác khó, công bằng

 Sức tột quên lui tới

 Lưới vàng bủa khắp nơi

 3.- Chẳng rơi phàm thánh

 Sự lý đều chẳng mắc

 Soi lại bặt u vi

 Trái gió không khéo vụng

 Điện chớp khó theo tầm.

Sư lại làm kệ rằng:

 Đạo vô tâm hiệp nhân

 Nhân vô tâm hiệp đạo

 Dục thức cá trung ý

 Nhất lão nhất bất lão.

DỊCH

 Đạo không tâm hợp người

 Người không tâm hợp đạo

 Muốn biết ý trong đó

 Một già một chă?g già.

Sư bệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:

- Vân Cư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói "con đường Vân Nham sắp dứt". Ngươi nói xong phải đứng xa, e y đánh ngươi.

Sa-di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh một gậy.

*

Sắp viên tịch, Sư bảo chúng:

- Ta có tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?

Cả chúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:

- Xin pháp hiệu Hòa thượng.

Sư bảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:- Có.

Tăng thưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?

Sư bảo:- Lão tăng xem y có phần.

Tăng thưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sư bảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.

Sư lại hỏi Tăng:

- Lìa cái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùng ta thấy nhau?

Tăng không đáp được

Sư bèn làm bài kệ:

 Học giả hằng sa vô nhất ngộ

 Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ

 Dục đắc vong hình dẫn tung tích

 Nỗ lực ân cần không lý bộ.

DỊCH

 Kẻ học hằng sa ngộ mấy người

 Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi

 Muốn được quên thân bặt dấu vết

 Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.

Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt mở mắt bảo:

- Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xótlợi ích gì?

Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: - Tăng-già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.

Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch.

Bấy giờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường (869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.

8. THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã Tổ - (709 - 788)

Vì người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sư họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðời Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm ấn

Sau khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Một hôm Sư dạy chúng: 

- Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp." (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.) 

Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.

Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua, đâu còn có việc gì.

Các ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

 Tâm địa tùy thời thuyết

 Bồ-đề diệc chỉ ninh

 Sự lý câu vô ngại

 Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

 Ðất tâm tùy thời nói

 Bồ-đề cũng thế thôi

 Sự lý đều không ngại

 Chính sanh là chẳng sanh.

*

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sư đáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Con nít nín rồi thì thế nào?

- Phi tâm phi Phật.

- Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nói với y là "phi vật".

- Khi chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãy dạy y thể hội đại đạo

*

Có vị Tăng hỏi:

- Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sư đáp:

- Hôm nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng

Trí Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăng đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

Trí Tạng hỏi:

- Hôm nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.

Tăng đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.

Tăng trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.

*

Cư sĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nước không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này thế nào?

Sư đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân xương?

Uẩn bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn lên! 

Sư liền nhìn thẳng xuống.

Uẩn nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sư liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng. Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sư hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

Trí Tạng thưa:- Nên cúng dường.

Hoài Hải thưa:- Nên tu hành

Phổ Nguyện phủi áo ra đi. 

Sư bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.

*

Hoài Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp? 

Sư đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sư lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

Hoài Hải dựng đứng cây phất tử.

Sư bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

Hoài Hải ném cây phất tử xuống.

*

Tăng hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sư đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang? 

Sư liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ cười ta.

*

Ðặng Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

Ẩn Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- Ðường Thạch Ðầu trơn.

- Có cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

Ẩn Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấy là tông chỉ gì?

Thạch Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

Ẩn Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươi nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi "hư! hư!"

Ẩn Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

Thạch Ðầu bèn: Hư! hư!

Ẩn Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Ta đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Có vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sư hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôi giảng được hơn hai mươi bản kinh luận. 

- Ðâu không phải là sư tử con?

- Không dám.

Sư thốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảng sư nói:- Ðây là pháp.

- Là pháp gì?

- Pháp sư tử ra khỏi hang.

Sư bèn im lặng.

Giảng sư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Là pháp gì?

- Pháp sư tử ở trong hang. 

- Không ra không vào là pháp gì?

Giảng sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủ tọa!

Giảng sư xoay đầu lại.

Sư hỏi:- Là pháp gì?

Giảng sư cũng không đáp được.

Sư bảo:- Ông thầy độn căn.

*

Một hôm Sư dạy chúng:

- Ðạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp giới, lập chân nhưchân như, lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà mình. 

Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như. 

Thanh văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông.

Ðệ tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm chủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðời Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị giả:

- Thân cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong, Sư trở về.

Ðến ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi tuổi hạ.

Sau vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant