Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thuyết tương đối văn hóa

19 Tháng Mười 201000:00(Xem: 30056)
Thuyết tương đối văn hóa

Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học... Để tìm hiểu những qui luật lí giải cho sự vận hành của văn hóa các dân tộc, từ thế kỷ thứ XIX đã xuất hiện các học thuyết khác nhau.
Và những học thuyết này chủ yếu xuất hiện ở các nước có nền văn minh tiên tiến như Mỹ, Anh, Đức... Trong buổi đầu này, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt những nhà nghiên cứu văn hóa với những học thuyết khác nhau; như Framz Boas với học thuyết tương đối văn hóa, Bronislaw Malinowski (1884-1942) với quan điểm về chức năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và nhu cầu tâm lý cơ bản của con người; Radcliff Brown (1881 – 1955) và khuynh hướng nghiên cứu cấu trúc xã hội, các nguyên lí tổ chức các cá nhân thành xã hội; Friedrich Ratzel, Friedrich Grabner ở Đức với học thuyết truyền bá văn hóa... Các nhà nghiên cứu văn hóa này đã góp phần làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý hơn và đã tạo được nền móng ban đầu cho những người người sau nghiên cứu về văn hóa.

Mỗi học thuyết đều có nhưng lí giải khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau khi đối mặt với các vấn đề của văn hóa. Bởi vì văn hóa học có đối tượng rất đa dạng và phong phú. Nó không bị hạn hẹp trong một quốc gia nào, một con người nào, một thời đại nào. Nó là tất cả những yếu tố vật chất lẫn tinh thần do con người tạo ra và đang chi phối con người về mặt này hoặc mặt khác... đó đều là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học.

Với một đối tượng quá rộng như vậy, các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu chúng ở những khía cạnh khác nhau. Ở đây chúng tôi chọn học thuyết tương đối văn hóa với nhà nghiên cứu đại diện là Framz Boas (người Mỹ) để tìm hiểu.

Framz Boas đã phê phán thuyết tiến hóa sinh học được áp dụng trong việc nghiên cứu xã hội. Vì ông cho rằng nghiên cứu các thể hữu cơ sinh học và xã hội là khác nhau và không đồng nhất. Cụ thể ông đã đưa ra các điểm:

- Ông phê phán cách so sánh của các nhà nghiên cứu thuyết tiến hóa luận đơn tuyến. Ông chủ trương tập trung vào các nền văn hóa cụ thể. Và ông cho rằng, mỗi một nền văn hóa có những sự diễn biến đặc thù cho nền văn hóa đó mà thôi. Vì mỗi cộng đồng có một lịch sử riêng, chính lịch sử riêng ấy đã qui định văn hóa của cộng đồng.

- Ông cho rằng khi nghiên cứu những nền văn hóa khác nhau thì có thể tìm ra những điểm chung, những điểm chung ấy do: 1. Tất cả các xã hội khác nhau đều phát triển theo một qui luật, đều muốn sáng tạo một nền văn hóa và nền văn hóa ấy phát triển từ thấp đến cao. Đây là qui luật chung của sự sáng tạo nhân loại. 2. Do sự phát triển đồng qui: Mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng của mình và trong quá trình phát triển thì đồng qui nhau ở một điểm nào đó.

Như vậy để giải thích được các nền văn hóa khác nhau cần xuất phát từ ba quan điểm:

1. Quan điểm về điều kiện môi trường.

2. Quan điểm về các nhân tố tâm lí: chính môi trường đã tác động đến tâm lí của cộng đồng ấy.

3. Quan điểm về các quan hệ lịch sử của nền văn hóa này. Đây là quan điểm quan trọng nhất. Vì mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng; khi tìm hiểu nền lịch sử của cộng đồng ấy, bắt buộc nhà nghiên cứu phải thâm nhập vào cộng đồng ấy, biết ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc ấy để sử dụng trong giao tiếp. Và đặc biệt quan trọng, đó là cách nhìn, phải xuất phát từ cộng đồng người ở nền văn hóa đó.

Hướng nghiên cứu này nó là nền tảng cho học thuyết Tính tương đối của các nền văn hóa. Và người đại diện thành công của học thuyết này là một nhà nhân học người Mỹ Herscovits, ông là học trò của Framz Boas. Herscovits đặc biệt nhấn mạnh thuyết tương đối văn hóa. Ông coi nó như là một phương pháp nhận thức các giá trị văn hóa dựa trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng các giá trị văn hóa, thừa nhận tính độc lập giá trị tự thân của các nền văn hóa.

Herscovits đã chia học thuyết này ra làm ba phương diện:

1. Phương diện phương pháp luận: được thể hiện: khi miêu tả các giá trị của các nền văn hóa khác nhau thì cần phải miêu tả bằng chính các thuật ngữ của các nền văn hóa ấy. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm hiểu nền văn hóa từ trong lòng nó bằng ánh sáng của chính xã hội đó. Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu nhân học theo cách nghĩ cách nhìn của người bản địa. Đó là một quá trình tìm hiểu lâu dài vì nhà nghiên cứu phải thâm nhập, hiểu rõ họ, sống cùng với họ ngay cả phải thực hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.

2. Phương diện triết học: Đó là sự thừa nhận có nhiều con đường phát triển văn hóa khác nhau. Đây là chủ nghĩa đa nguyên. Với quan điểm triết học này, các nhà tương đối luận văn hóa phủ nhận các nền văn hóa phát triển theo một con đường mà phải phát triển theo nhiều con đường khác nhau. Đây cũng là cách để chống lại chủ nghĩa đế quốc phương Tây (trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện tượng hòa nhập). Đây chính là chủ thuyết không tuyệt đối hóa một kiểu phát triển văn hóa nào.

3. Phương diện thực tiễn đánh giá: Điều này được nói lên rằng, trong thực tế rất phức tạp, bao hàm cả việc tiến bộ lẫn lạc hậu. Nên khi xem xét một nền văn hóa nào cũng phải thực tiễn đánh giá. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thực tiễn vào nền văn hóa, sống trong nó, làm việc trong nó, khi ấy mới có một cái nhìn trung thực được.

Nghiên cứu văn hóa, hơn bao giờ hết, mục đích là tìm cho đượccái khuôn của nền văn hóa đó. Chúng mang một màu sắc đặc trưng của dân tộc, tôn giáo, xã hội... mà màu sắc ấy thể hiện rất nhạt nhòa trong các nền văn hóa khác.

Ví dụ: Ở Ấn Độ triết lý khổ hạnh và thang bậc đẳng cấp đã bao trùm nền văn hóa nước này; Ở Nhật Bản trung thành với nhà vua là tư tưởng chủ đạo. Nó thể hiện tính toàn vẹn trong văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóanghiên cứu tính toàn vẹn đó để thấy được những giác trị riêng của từng nền văn hóa.

Chúng ta biết rằng, văn hóa là những cái rất riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người (không có văn hóa của từng cá thể). Nó là kết tinh của một chuỗi dài thời gianlối sống của một dân tộc nào đó. Chính vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu văn hóa, không có hiện tượng áp đặt văn hóa. Không thể cho và cũng không thể có một mô hình chung để từ đó các nền văn hóa lần lượt phát triển theo.

Học thuyết tương đối văn hóa này, đúng tên gọi của nó là một sự không áp đặt khi xem xét. Mà quá trình nghiên cứu, giải mã nó phải xuất phát từ bên trong, trong lòng nền văn hóa đó. Ví dụ: để tìm hiểu nền văn hóa Việt Nam, thì một người Mỹ hay Anh không sống trên đất nước này, không tham gia lao động sản xuất, không thực hiện niềm tin tôn giáo... thì không thể nghiên cứu trọn vẹn được. Và có nếu có được chăng nữa thì đó chỉ là cái sát không hồn. Bởi vì một nền văn hóa nào cũng mang đậm dấu ấy của tư duy, của tình cảm, của ước mong... của dân tộc ấy.

Với học thuyết này, và các học thuyết khác như thuyết chức năng văn hóa, thuyết truyền bá văn hóa... đã làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý đến. Tuy văn hóa học ngày nay vẫn chưa phát triển mạnh ở trong nước cũng như nước ngoài, nhưng nó đã tạo được một tiền đề quan trọng cho những người làm công tác nghiên cứu sau này phát triển.

Thích Hạnh Tuệ



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9800)
Con người muốn được sống hạnh phúc, thanh thản mà trong tâm lại vẫn cứ ôm giữ các loại tâm tranh đấu, oán hận thì vĩnh viễn không thể nào đạt được.
(Xem: 9817)
Thân người là khó được, vì vậy sống trên đời nhất định phải có tu dưỡng đừng buông lỏng bản thân giống như “nước chảy bèo trôi”,
(Xem: 9638)
Làm người, chúng ta cần phải thời khắc tự mình phản tỉnh lấy chính mình, mới có đủ năng lực tu bồi đức hạnh, tiến tu đạo nghiệp.
(Xem: 8004)
Bà mẹ già ngồi ở băng ghế sau chiếc xe hơi bỏ mui màu đỏ sậm đang rẽ quặt xuống xa lộ.
(Xem: 11286)
Vào ngày cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh tôi vội vã tới siêu thị để mua các món quà tặng còn sót lại mà trước đó chưa kịp mua.
(Xem: 8431)
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành hạ quả đất cách nầy, chắc chắn nền văn minh của chúng ta sẽ bị hủy diệt.
(Xem: 8262)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Tổng Giám Mục Desmond Tutu có một lúc yên tĩnh trước buổi sáng đầu tiên của Hội Nghị Chuyên Đề Một Trăm Năm.
(Xem: 8453)
Chính Phật Pháp đặt trước chúng ta những lý tưởng lớn của lòng từ và bi đối với tất cả loài có sự sống và hơi thở, và điều này...
(Xem: 9403)
Ngay hôm nay và về sau người dân Miền Trung sẽ sống trong hoang mang vì biển chết, cá nhiễm độc. Người dân cả nước sẽ nơm nớp lo âu...
(Xem: 8769)
Là nhân viên hiện công tác tại Bộ Môi sinh cho một tiểu bang tại Hoa Kỳ, người viết theo dõi tin tức trong tâm trạng hết sức lo âu về...
(Xem: 9121)
Mỗi người, ở giữa sóng trần cuồn cuộn, đều là những con thuyền có hành trình xa thẳm, gặp được Phật Pháp thì thật đáng trân quý biết bao.
(Xem: 9126)
Khi bạn cho đi là bạn đã nhận được nhiều hơn thế, đó là những niềm vui vô hình mà bạn không chạm vào được.
(Xem: 8276)
Con người sau khi chết, nghiệp không bao giờ mất. Trừ phi, những người hiện đời đã dứt sạch ý nghiệp. Nói rõ ra, là những người đã đạt đạo, thì mới thấy được: “nghiệp tánh bổn lai không”.
(Xem: 8322)
Tỳ-kheo có một nghĩa là bố ma, làm cho ma phải khiếp sợ. Ma chướng trong đường tu rất nhiều, bên trong và bên ngoài, thường gọi là nội ma ngoại chướng.
(Xem: 10844)
Chỉ có Phật giáo lại được một vinh danh vô cùng cao quý là giải thưởng “Tôn giáo tốt nhất thế giới”.
(Xem: 8895)
Cổ nhân cho rằng con người làm việc gì cũng đều có nhân quả báo ứng, thiếu nợ cái gì phải hoàn trả cái đó.
(Xem: 27712)
Hành thiện sẽ tích được phúc báo. Nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều việc mà chúng ta vô ý làm sẽ không những không tích được phúc báo mà còn...
(Xem: 9114)
Ôi, thử tưởng tượng đời sống này không có Cha! Một khi trôi lăn, biết đâu nẻo về! Bầu trời sẽ tăm tối hơn.
(Xem: 8888)
Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của ta...
(Xem: 11396)
Các giới văn học Việt Nam xưa nay, thường nói : “Là thi sĩ, ai cũng có tâm hồn rất lãng mạn, đa tình trước trăng, sao, núi non, sông, hồ...
(Xem: 10111)
Việc làm rất thiện, rất lành, Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi, Chẳng ăn năn, lại mừng vui, Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 11733)
Dưới đây là 12 đường nhân quả báo ứngảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời của mỗi người. Đó là gì, hãy cùng xem nhé!
(Xem: 8931)
Ta bà vốn cõi mộng, do thức biến. Người đang tu chưa thể hiểu thấu, chỉ biết tin theo lời Phật để mong một lần tỉnh mộng.
(Xem: 8870)
Người xưa có câu: “Có đức mặc sức mà ăn”, ý muốn dạy chúng ta rằng làm gì thì cũng phải coi trọng đức, tích đức và đề cao tầm quan trọng của đức.
(Xem: 9682)
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn...
(Xem: 9348)
Được xuất gia là điều khó, nhưng gia nhập hội chúng xuất gia rồi, từng bước tiến tu để đi đến thành tựu giải thoát lại càng khó hơn.
(Xem: 17426)
Hôm đó là một ngày lịch sử của tiểu bang rộng nhất nhì nước Mỹ nầy và đặc biệt là vùng Houston, nơi có chùa Trúc Lâm đang hiện hữu với một rừng trúc bạt ngàn...
(Xem: 27513)
Năm xưa tôi còn nhỏ, mẹ tôi đã qua đời! Lần đầu tiên tôi hiểu, thân phận trẻ mồ côi...
(Xem: 15629)
Nói một cách đơn giản, Thiện-tri-thức tức là người có trí huệ, ác tri thức tức là người ngu si.
(Xem: 9059)
Cơn giận của con người hiển hiện khắp mọi nơi trên thế giới, là nguồn cơn của cái ác, bất hạnh và khổ đau.
(Xem: 8867)
Nếu ta kháng cự với giây phút-hiện tại là ta đang làm sai— là ta đang khích trương cái ý-chí và càng làm nó mạnh bạo hơn.
(Xem: 10783)
Chưa hoàn mỹ là cơ hội để bạn cố gắng, ước mơ, hy vọng chứ không phải là lý do để bạn tự dằn vặt về sự thiếu kém hay thất bại của mình.
(Xem: 8569)
Một câu trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một là tất cả, tất cả là một).
(Xem: 9506)
Trong trái tim triết lý hòa bình của Đức Đạt Lai Lạt Manăng lực nuôi dưỡng sự tha thứ.
(Xem: 8456)
Rất khó khuyến khích và truyền cảm hứng cho người khác mà không làm họ thất vọng ít nhiều.
(Xem: 7960)
Sự tự lừa phỉnh mình có nhiều lớp chồng lên nhau. Càng tu tập lâu dài và càng tìm hiểu mọi sự vật thì ...
(Xem: 9272)
Nói nghiệp là quyền năng trong tay mình định đoạt. Cuộc sống đời này và đời sau do mình an bài lấy.
(Xem: 8937)
Tất cả chúng ta dù lớn, dù nhỏ có mặt trên trần gian này, ai cũng thấy bản ngã của mình là quan trọng...
(Xem: 8445)
thế gian có những sự việc xảy ra, người mê lấy làm vui thích, người tỉnh không tán thán. Ngược lại có những việc người mê cho là khổ, người tỉnh lại vui vẻ thực hành.
(Xem: 8432)
Ai cũng biết Thế Tôn là bậc Phước trí nhị nghiêm, viên mãn phước đứctrí tuệ. Ấy vậy mà suốt cả cuộc đời, Ngài vẫn tiếp tục
(Xem: 9298)
Biết rõ quả hẳn từ nhân mà có, không có chuyện ngẫu nhiên. Hiên tại khổ hay vui đều do nhân quá khứ đã tạo, muốn không khổ , muốn được an vui, phải tránh nhân xấu.
(Xem: 9091)
Vô thường và cái chết giống như bóng tối trải dài của buổi hoàng hôn ở cửa đèo. Nó đến gần không hề ngơi nghỉ ngay cả trong chốc lát.
(Xem: 9161)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã.
(Xem: 9091)
Để không đánh mất chính mình chúng ta phải sống tỉnh giác, là khi làm việc gì ta phải biết rõ việc đó; khi đi biết mình đang đi, khi...
(Xem: 10777)
Thực hành Phật pháp là học cách sống, và đó là con đường vừa đầy niềm vui vừa đầy thách thức.
(Xem: 14674)
Đau khổ là một phần của cuộc sống đối với tất cả chúng sinh có tình thức. Nếu chúng ta biết tìm ra nguyên nhânphương cách để thoát khổ, chúng ta sẽ bớt khổ hơn.
(Xem: 10182)
Khi bạn phân tích triết lý này từ quan điểm của y học Trung Quốc cổ đại, sinh lý học và tâm lý học hiện đại, bạn có thể thấy rằng “tướng do tâm sinh” là có thể lý giải.
(Xem: 8940)
Mở bất kỳ Kinh Nhật Tụng nào trong các chùa Bắc Tông, chúng ta đều thấy có các nghi thức cầu an, cầu siêu. Nhiều người nghĩ rằng...
(Xem: 9021)
Tiếng chuông chùa ngân nga, văng vẳng trong không gian rồi tan loãng giữa xóm làng sau khi đã thâm nhập chốn dương trần và đưa nhân gian vào cõi tịch tĩnh hư không.
(Xem: 21934)
Tính từ đêm nhìn ngắm trời sao Paris qua khung cửa sổ Linh Sơn, hơn ba mươi năm đã qua còn nhanh hơn bóng câu qua cửa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant