Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng nói của con tim tĩnh tâm

18 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10931)
Tiếng nói của con tim tĩnh tâm

TIẾNG NÓI CỦA CON TIM TĨNH TÂM
Dr. Lý Văn Kim

Trong thời đại bây giờ, con người hình như có quá ít thời giờ để nghĩ đến riêng cho bản thân mình, do bởi quá sức bận rộn với cuộc sống, nghề nghiệp, mà phải lao động suốt ngày, đôi khi quên cả hơi thở của chính mình mà chỉ biết lo làm việc, tối tăm mặt mũi vì “trăm ngàn công việc”. Cho đến một hôm, tôi đã ngẫm nghĩ, nghe ngóngdo bởi quá bức xúc, tôi phải viết lên những thầm nghĩ của chính mình.

Tôi không phải là thi sĩ, văn sĩ cũng không phải là tu sĩ, tôi chỉ là một bác sĩ nha khoa, cũng là một người thầy thuốc, nên phải hành nghề, phải giúp đỡ chữa trị cho người quen, kẻ lạ và ngay cho cả bản thân mình. Nhưng tôi nhận định được rằng, thuốc men chữa trị chỉ trị được cái “đau” mà không chữa được cái “khổ”. Tôi mong được chia sẻ những thầm nghĩ để cùng với mọi người, chúng ta hãy lắng nghe “Tiếng nói của con tim mình”. Trái tim không phải dùng để suy nghĩ; trái tim là để yêu thương và nếu trái tim có nghĩ, thì chắc chắn nó không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của nó, mà nhiều khi khoi óc không sao hiểu được. Con người bây giờ dùng khối óc nhiều quá! Nhiều đến nỗi, người ta luôn luôn trong tình trạng muốn “điên cái đầu”. Có lẽ đến lúc chúng ta hãy thử lắng nghe tiếng nói của con tim mình.

Dù rằng máy computer, đã gắn liền thông tin liên lạc giữa các quốc gia nối trọn vòng trái đất, nhưng hình như chúng ta có quá ít thời gian để nghe tiếng nói của con tim mình. Chúng ta ngày càng xa nhau hơn, xa với người và xa cả với chính mình.

Một hôm, có chàng thi sĩ nhìn thấy một đóa hoa nở, chàng thi sĩ đó đã cúi đầu, tĩnh tâmcảm thấy đóa hoa bỗng nhiên như nở một “nụ cười” tươi với chàng; rồi không hẳn chỉ cười, mà hình như đóa hoa đó còn đang nói chuyện với chàng. Người ta có thể nghĩ rằng chàng thi sĩ đó chắc bị điên, có điều chàng ta biết rất rõ, là chàng ta đã nghe được tiếng nói tận con tim mình.

Khi chúng ta nghe được tiếng nói của con tim, thì tâm ý sẽ quên đi những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ, và giúp cho chúng ta dễ có khả năng hòa đồng, giúp đỡ, bố thí, làm phước, có trách nhiệm hơn với chính mình, biết thương mình, thương người, thương cuộc sống và biết thưởng thức cuộc sống với chất lượng cao hơn, không phải chỉ là giàu có hơn, danh vọng hơn, thành công hơn, mà là có hạnh phúc hơn, biết tha thứ và biết “buông xã”.

Do bởi có quá nhiều bức xúc trong cuộc sống, nên tôi viết lên những lời chân thành, cảm nghĩ của con tim mình, để được sống sảng khoái hơn. Nhưng tôi đã quên đi một điều rất tầm thường, đó là tôi không biết thở cho đúng cách tôi đã để hết tâm trí mà viết, cũng giống như các bạn, quá chú tâm vào công việc và chúng ta đã quên đi “phương pháp thở chánh niệm”.

Trong suốt đời người, “sự sinh tử” đã xẩy ra quá nhiều lần, mà không một ai trong chúng ta lại để ý đến. Thử nghĩ xem, chỉ riêng về máu trong cơ thể, mỗi giây đã có nhiều triệu tế bào hồng cầu (red blood cells) bị hủy diệt và độ chừng ba tháng, một “Hệ thống máu mới đã được sinh ra”, nói một cách khác “Một con người mới” đã được ra đời trong mỗi chúng ta.

Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.

Phương pháp thở chánh niệm, kết hợp với tiếng nói của con tim, sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được hồn nhiên hơn. Nói một cách khác, “chốn thiên đàng hoặc cõi niết bàn” thật ra là ở ngay trong tâm của chúng ta mà thôi, chứ không phải tìm kiếm ở đâu xa đúng như lời của vua Trần Nhân Tông đã nói: “Gia Trung hửu bảo hưu tầm mích”.

Số lượng kinh Phật nếu muốn học hết, có lẽ học đến mười kiếp cũng chưa hết. Nhưng Đức Phật đã nói: chỉ cần chúng ta học một chút, mà “Ngộ” được cũng đủ lắm rồi, làm vài việc thiện, nói vài câu “Tâm Thanh Ý Lành” cũng đủ làm cho chúng ta được “Thân Tâm An Lạc”. Cũng như người Công Giáo, không phải đợi cho đến mùa “Tĩnh Tâm” thì lúc đó mới Tĩnh Tâm, mới “ngẫm” đến sự hy sinh Cứu rổi của Chúa. Hoặc người Phật tử chỉ “Hành Thiền” phải luôn luôn tịnh tâm hoặc “Hành Thiền” khi đi đến chùa, chúng ta để được Thân Tâm An Lạc.

Như vậy, lúc chúng ta hít vào thở ra, thì chúng ta đã có nhiều tế bào bị hủy diệt đi, và đã có nhiều triệu tế bào khác được sinh ra.

 “Có phải mất đi là để được sinh ra, phải không các bạn?”

Và nhờ đó con người được liên tục, tế bào này liên hợp với tế bào kia “Hợp rồi Tan”, “Tan rồi Hợp”, như cơn sóng vỗ bờ, thủy triều lên xuống. Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng “chẳng có cái gì mất đi và cũng chẳng có cái gì sinh ra, hoặc ngược lại.

Nhà Bác Học NewTon, người đã đưa ra Định Luật sức hút của Quả Đất, do ông đã “Ngộ” khi nhìn thấy trái táo (Apple) rơi. Chúng ta ai ai cũng thấy trái táo rơi ở vườn Táo, mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được đâu? Không lẽ phải đợi cho đến khi ông NewTon nằm nghĩ dưới gốc cây táo, thì lúc đó trái táo mới rơi? Và nhờ định luật sức hút Quả Đất, nên chúng ta mới chế tạo được máy bay, phi thuyền bay lên không gian, để khỏi bị sức hút của Quả Đất hút xuống.

Nhà Vật Lý Học Archimede đưa ra “Định Luật về sức đẩy của Nước”, khi ông đang tắm ở trong bể tắm. Nhờ đó con người đã chế ra các chiếc thuyền Chiến Hạm và ngay cả Tiềm Thủy Đỉnh. Còn chúng ta hầu như mỗi ngày đều phải tắm -- vậy mà có ai trong chúng ta “Ngộ” được?

Tôi còn nhớ lúc còn nhỏ, đêm đêm nằm ngủ, nghe mẹ tôi, tụng kinh Bát Nhã “Quán Tự Tại Bồ Tát Hành Thâm, Bát Nhã Ba La Mật Đa... Sắc bất dị không, không bất dị sắc; Sắc tức thị không, không tức thị sắc”… Tôi chỉ cảm thấy êm tai mà ngủ một giấc ngon lành. Lớn lên, được Mẹ cho vào học Nội trú ở các Trường Công Giáo, Tôi cũng đi theo các anh em bạn học dự vài buổi lễ Tĩnh Tâm, đêm về Tôi lại có giấc ngủ ngon.

Như vậy, một giấc ngủ an lành, đã đến với tôi, nhờ Tôi có được “Tâm Ý An Lạc” làm cho hơi thở được điều hòa và dòng máu chuyển thông suốt. Theo Tôi, chúng ta nên đi chùa, nhà thờ, hoặc làm phước, bố thí, thì một giấc ngủ an lành sẽ đến với chúng ta -- và chúng ta cũng phải luôn luôn giữ Tâm ý thanh thản đừng để cho cái Tâm bị động như “TÂM VIÊN Ý MÔ.

Thật ra sự thay đổi kiến thức dễ hơn là thay đổi cái Tâm. Có một người bị mất con dao, nhìn ai cũng nghĩ sao nó giống kẻ ăn cắp con dao, khi nghi thì vẽ vời tưởng tượng đủ thứ, khi giận thì mặt phừng phừng như lửa đốt, tìm mọi lý lẻ để chứng minh mình là đúng, người là sai. Và còn khi sợ hãi thì tay chân bủn rủn, rụng rời… Tất cả cũng chỉ tại cái Tâm của chúng ta mà thôi. Chúng ta luôn nói rằng “Mặt Trời Mọc (Sinh), hoặc Mặt Trời Lặn (Diệt), hoặc Trăng Khuyết, thật ra mặt trăng có bị khuyết bao giờ đâu? Và mặt trời cũng chẳng có bao giờ mọc hoặc lặn, mà chỉ có quả đất là đang xoay chuyển.

Ánh Trăng vẫn chiếu sáng trên mặt hồ, chỉ cần không có cơn sóng dao động. Vì vậy trước hết chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, phải có cái nhìn đặc biệt về mình, và phải “Từ Bi” với mình, tức là phải biết thương yêu cái thân Tâm mình. Một câu ngạn ngữ của Hoa Kỳ có nói rằng:

“Nếu Bạn không biết thương yêu bạn, thì làm sao bạn có thể yêu thương người khác”. “If you don't Love yourself, how can you be able to love anybody esle?” Khi chúng ta biết thương mình, thương người cộng thêm với “tiếng nói tận Con Tim”, thì chúng ta sẽ làm cho hoàn cảnh chung quanh đẹp hơn, ánh nắng sẽ tươi hơn, cơn mưa sẽ mát hơn, tình yêu tuyệt vời hơn và lúc đó mọi sự sẽ nhẹ nhàng, thanh thản. Cái Tâm ý sẽ bớt đi sự tham lam, sân si.

Ngoài cái lo sự lớn nhất của con ngườisợ chết. Bên cạnh đó còn có những lo sợ khác như sợ nghèo, sợ xấu xí, già nua… Cô Hoa Hậu mỗi ngày đều soi gương, khi thấy chỉ có một sợi tóc bạc, hoặc một cái mụn thì đã làm cho cô ta lo sợ, khổ đau. Chỉ có Đức Phật khi nghe nói đến sự khổ đau thì ngài chỉ mỉm cười.

Tất cả chúng ta ai ai cũng có “Phật Tánh”. Đức Phật đã có nói rồi mà “Ta là Phật” Chúng sanh cũng là Phật sẽ thành. Còn theo Thánh Kinh Công Giáo, Thiên Chúa khi tạo ra con người, ngài đã tạo ra thân xác con người hiện hửu giống như ngài. Tức là chúng ta cũng có “Tánh Phật”, cũng có “Tâm ý Chúa” vậy thì đâu có gì lạ? Đâu có gì thay đổi? Đôi khi sự khổ đau đã xảy ra là do những hiện hửu bên ngoài đem đến, mà không phải tự do chúng ta gây nên.

Theo kinh Bát Nhã “Sắc bất dị không, không bất dị sắc…” Chữ “Sắc” ở trong câu kinh, theo thiển kiến của tôi, nó có nghĩa là “hình sắc, sắc đẹp, thân thể hoặc sắc diện chứ không phải có nghĩa là màu sắc như chúng ta thường nghĩ. Như vậy sắc có nghĩa là thân xác, và đã xuất hiện rõ như vậy, cớ sao câu kinh lại gọi là không?

Thật ra cái sắc (thân xác) tuyệt vời kia, cuối cùng lại tan biến vào cát bụi. Do đó, nếu chúng ta cứ bám lấy cái sắc (thân xác) mà xem đó là “sự vĩnh cửu” đời đời, thì chúng ta sẽ khổ đau, khi thấy cái sắc (thân xác) bị phai tàn, để cuối cùng lại tan vào cát bụi, trở về với hư không và rồi lại tiếp tục sắc bất dị không, không bất dị sắc. Chữ không trong câu kinh sắc bất dị không, các bản dịch tiếng Anh (English) đều không dịch được sát ý của chữ không, không có danh từ, tương đương và lại càng không thể dịch là “không có -- nothing”. 

Chữ “không” trong kinh Bát Nhã là khoảng hư không của vũ trụ, là có hết tất cả. Tất cả con người chúng ta, đều được sinh ra, là do “duyên sinh”, chứ không phải là do “sự tự tính”. Và khi chúng ta được tạo ra, thì gọi là sắc (hình thể) để rồi khi chết đi thân xác lại tan vào cát bụi của cõi hư không liên tục tan rồi hợp, hợp rồi tan, cho đến khi gặp duyên sinh, lại tạo ra sắc, để rồi: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”.

Khi chúng ta có người quen bạn hữu, hoặc thân bằng quyến thuộc như cha, mẹ, anh, chị, em hoặc người bà con của chúng ta bị mất đi, chúng ta rất đau buồn, khóc lóc, nước mắt lại trào ra, thương tiếc cho người quá cố, và làm cho chúng ta càng nghĩ đến kiếp người, sắc rồi lại không.

Cuộc Hồng Trần xoay vần quá ngán,
Kiếp Phù Sanh tụ tán mấy lăm Hồi
Người ơi có biết hay chăng?
“Sắc” người tuy có, có rồi hoàn không
Chiêm bao giấc ngủ lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi
Khi nào người đứng, người ngồi,
Bây giờ nhắm mắt như chồi cây khô
Khi nào mẹ mẹ, cha cha;
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng
Khi nào vợ vợ, chồng chồng,
Bây giờ Trăng khuyết còn mong chi tròn…

Kiếp người của chúng ta, lúc có lúc không. Sự sinh tử luân hồi đã xảy ra quanh chúng ta liên tục không ngừng. Đã đến lúc, chúng ta nên tĩnh tâm, dùng lời Tâm Thanh Ý Lành để đối xử với nhau, để biết buông xả và hãy lắng nghe tiếng nói của con tim mình để có một lối sống an vui hơn.

Khi chúng ta đang lúc nóng giận, thì hơi thở trở nên dồn dập, không kiểm soát được và khi ta bớt giận, thì hơi thở sẽ từ từ trở lại bình thường. Đây là một hiện tượng Sinh Lý Học. Do đó nếu chúng ta đang giận điều gì, thì nên tập trung chú ý đến nhịp thở và cố tìm cách kiểm soát hơi thở, do đó chúng ta đâu có thời giờ để ý đến chuyện giận nữa. Người biết kiểm soát được hơi thở thì sẽ kiểm soát được “Tâm Ý”. Chúng ta thường hay nghe nói “Giận quá mất khôn?” Phải không các bạn.

Muốn kiểm soát được hơi thở. Trước tiên chúng ta phải “Tĩnh Tâm”, “Thiền”, và thở bằng cơ Hoành (Diaphragm muscle), hay còn gọi là cách thở Bụng. Đây là cách thở của trẻ sơ sinh, thở một cách êm nhẹ, nhưng rất có hiệu quả. Còn khi chúng ta tập thể dục, cử tạ, thì dùng đến các cơ hô hấp phụ, như cơ gian sườn, cơ cổ và không tạo được hiệu quả nhiều.

Do đó ta có thể nói “Thiền” là thở, chủ yếu là thở bụng và luôn luôn nghĩ đến hơi thở của mình trong lúc thở và nên ngồi theo “Thiền” tư thế kiết già (Padmasana) để rồi lắng nghe tiếng nói của con tim mình, để làm cho huyết áp được điều hòa, lượng Acid Lactic giảm xuống đưa đến hiện tượng giảm co cơ và làm đều hòa nhịp tim.

Khi tâm trí của chúng ta được Thanh Tịnh và với Tâm Thanh Ý Lành, để “Quán Bát Nhã” và “Thiền Định” thì chúng ta sẽ được an vui. Và khi nghe đến câu kinh “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm”, chúng ta sẽ tự hỏi vị Bồ Tát này là ai?

Đó chính là Quán Thế Âm Bồ Tát. Người đã nghe được tiếng kêu thống khổ của Trần Thế và cũng là vị Bồ Tát đã tưới những giọt nước linh thiêng “Cam Lồ” để dập tắt những khổ đau ách nạn, giúp cho con người Trần Thế vượt qua được khổ nạn. Khi chúng ta giữ được Tâm Thân An Lạc, thở theo phương pháp thở Chánh niệm và lắng nghe tiếng nói tận con tim mình thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên An Lànhvui tươi hơn.

“Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ, cứu nạn linh cảm, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.” 

Dr. Lý Văn Kim

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18816)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19840)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17848)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25127)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18966)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18628)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20010)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant