Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giá Trị Thực Của Cuộc Sống

22 Tháng Chín 201510:30(Xem: 10354)
Giá Trị Thực Của Cuộc Sống
Giá trị thực của cuộc sống

Thích Phước Đạt


Giá Trị Thực Của Cuộc SốngThể theo nguyên lý Duyên khởi , xã hội mỗi ngày mỗi phát triển thì nhu cầu con người càng phát sinh . Nhiều giá trị khác nhau được con người thiết lập bao gồm giá trị vật chất cũng như tinh thần . Con người phải đối diện những vấn đề nan giải của cuộc sống vốn thường xuyên thay đổi , đôi khi dẫn đến lầm tưởng và hệ lụy , nhất là không phân biệt đâu là giá trị thật , hay phi thực . Vấn đề đặt ra là làm thế nào nhận ra đâu là giá trị thực của cuộc sống để hướng đến một đời sống thật sự hạnh phúcan lạc .

Phật pháp đồi với chúng ta là một kho báu vô tận , cung cấp những chân giá trị để hướng dẫn con người có một cuộc sống tốt đẹp và hiền thiện cho chính mình . Thế nên bất cứ ai hướng tâm theo Phật thì có nhiều cơ duyên hơn để suy ngẫm về những chân giá trị đó , thể hiện chúng trong cuộc sống hằng ngày của mình . Có thể nói càng thể nghiệm , chúng ta lại càng nhận ra các giá trị đích thực từ cuộc sống đem lại . Hẳn nhiên mỗi cá nhân hiện hữu học Phật và hành trì lời Phật dạy có thể nhận ra những giá trị chân thật trong việc thiết lập một đời sống hạnh phúc của chính mình . Thiết nghĩ có ba giá trị đích thực của cuộc sống mà chúng ta cần suy ngẫm và thực hiện trong đời sống thường nhật . 1- Sự sống bất diệt . 2-Tình giác ; và 3 -Tiếng nói nội tâm .

1- Sự sống là bất diệt .

Cuộc sống vốn mầu nhiệm vô cùng . Con người luôn khát vọng được sống lâu , được thăng tiến về trí tuệ , và được hưởng thành quả từ những gì họ đã tạo dựng . Thế nên các cá nhân hiện hữu luôn có thái độ lo âu sợ hãi khi cái chết đến gần , hay đột nhiên có người thân qua đời do tai nạn hay bệnh tật . Đó là tâm lý tự nhiên của con người . Nhưng Phật pháp đã dạy chúng ta sự sống là bất diệt , và sống-chết chỉ là hành vi lặp đi lặp lại của một chuỗi sống chết luân hồi vô tận . Sinh ra , già đi rồi chết , rồi lại tái sinh …cái vòng sinh tử luân hồi đó cứ kéo dài mãi cho đến khi con người giác ngộgiải thoát mới thôi . Vấn đề sinh và tử thật sự chỉ là bóng mây thoảng qua trên bầu trời và dợt sóng nhấp nhô trên biển cả , chết không phải là sự yên nghỉ cuối cùng mà là sự chuẩn bị một cuộc sống mới . Vì vậy bất cứ ai hiện hữu trên đời này đều có thái độ tỉnh thức về sự sống , và khi phải đối diện với cái chết . Chết không phải là mất tất cả hay hết tất cả . Chết là tiến trình thiết lập một đời sống mới , trong một cõi sống mới , một thân phận mới .

Do đó người hiểu đạo không nên lo âu về cái chết mà chỉ cần quan tâm làm sao cho mỗi lần sống , mỗi cuộc đời phải là một bước tiến dài trên con đường tiến bộ tâm linh , hướng tới giác ngộgiải thoát . Kinh dạy : :” Hữu sinh hữu tử luân hồi , Vô sinh vô tử vô khứ lai” là nghĩa vậy . Và như thế , cuộc sống mới , cõi sống mới , và thân phận mới tốt đẹp hơn hay xấu hơn so với hiện nay hoàn toàn tùy thuộc những điều ta suy nghĩ , nói năng và hành động vào bây giờ , ở đây và hằng ngày , ngay tại cuộc sống này . Hành động của chúng ta ( bao gồm cả suy nghĩlời nói ) càng có ý thức thì tác động của nó càng mạnh đối với tương lai gần cũng như xa . Hành động đó nếu kèm theo tâm vô lượng từ bi hỷ xả , thì tác động của nó trong phạm vi không gianthời gian cũng sẽ là vô lượng .

Thế nên khi chúng ta bắt đầu thực thi đời sống hướng nội , trong khi thực hành thiền , theo dõi hơi thở , cần nhớ nghĩ về cái tâm vô lượng đó , đối với những lời lẽ đầy cảm hứng như sau :

“ Mong sao tâm tôi mãi mãi . Trong vắt như ngọc pha lê , Quang đãng như bầu trời không mây , Thanh tịnh như hư không không bụi , Rộng lớn mênh mang như biển cả không bờ , Vững vàng không chuyển chư núi đá bất động …” ( Kinh Từ Bi)

Trong ý niệm đó , chúng ta cầu mong rằng hằng ngày ta nghĩ gì , nói gì và làm gì từ việc nhỏ đến việc lớn đều không tách rời cái tâm vô lượng đó , trong đời này , trong các đời sau nữa , trên con đường dài của tiến bộ tâm linh . Mỗi lần nghĩ tới cái tâm vô lượng như vậy , chúng ta cảm thấy lòng mình như trong sáng hơn , thanh thản và bình lặng hơn . Với một cái tâm như vậy , mọi lo âu và bức xúc về sống chết sẽ được giải tỏa . Thay vào đó là thái độ sống an nhiên tự tại , dành toàn bộ thời gian để hoàn thiện bản thân , tích cực đóng góp cho gia đìnhxã hội .

Chính trong tinh thần xem sự sống-chết là tiến trình chuyển hóa thân phận , chuyển hóa các sắc thân ngũ uẩn thành pháp thânThiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ , nhà Phật học lỗi lạc đời Trần , đã phát biểu : “ Cựu hải hà phương nhất điểm âu” . Nghĩa là biển lớn thì can gì một bọt sóng nhỏ . Đúng vậy . sự sống là biển cả không bờ , sống chết là bọt sóng nhấp nhô lên xuống . Cũng chính với cái tâm ấy mà Thiền sư Trì Bát đời Lý viết bài thơ Thiền Sinh Tử : “Hữu sinh tất hữu tử , Hữu tử tất hữu sinh , Sinh vi thế sở hỷ , Bi hỷ lưỡng vô cùng , Hổ nhiên thành bi thử , Ư chư sinh tử bất quan hoài” . Ý tứ của bài thơ là : Có chết thì có sinh ra ( tái sinh ) , Có sinh thì có chết . Chết thì người đời buồn . Sinh thì người đời vui .Buồn và vui là ( hai khâu của một chuỗi khâu ) vô cùng , ( Nhưng) vì đối đãi nhau mà có cái này cái kia . ( Còn ta ) đối với sống chết không có quan tâm , lo âu gì” . Đó là thái độ ung dung bình thản đối với sự sống và sự chết của một thiền sư ngộ đạo , thấu hiểu được đạo lý của sự sống và cái chết . Chúng ta , những người học đạo , cũng nên có thái độ ung dung tự tại như vậy đối với sống và chết để có thể an trú vào đời sống hiện tạinếp sống tốt đẹp , hạnh phúc sau khi chết đi , tái sinh vào cõi thiện lành an lạc .

2- Chánh niệm tỉnh giác

Sống trong thế kỷ 21 , với những thành tựu khoa học công nghệ và nền công nghiệp hóa toàn cầu , con người một mặt càng có nhu cầu thọ hưởng vật chất , các phương tiện phục vụ đời sống tiện nghi : mặt khác càng có thái độ sống muốn chiếm hữu , sở hữu của cải , khẳng định cái gọi là ta , của ta , và tự ngã của ta . Hãy thử vào một cửa hàng siêu thị được trưng bày theo công nghệ được quảng cáo hiện đại với những thành tựu sản phẩm mới nhất , hay hãy ngắm một mỹ nhân , hoặc đứng trước một cơ hội đầy lợi danh ..thì chúng ta sẽ thấy ý thức tỉnh giác của tự thân đang ở cấp độ nào ! Chính vì vậyđạo Phật khuyên ta hãy thường xuyên chánh niệm tỉnh giác từ trong ý nghĩ cho tới từng hành vi biểu hiện và mọi ứng xử trong cuộc sống .

Chánh niệmý nghĩa chân chánh , không nghĩ xấu , nghĩ ác , nghĩ bậy , có hại cho mình và người khác . Tỉnh giáctỉnh táo , theo dõi mọi ý nghĩ , mọi niệm ; đảm bảo mọi ý nghĩ , mọi niệm trong tâm của chúng ta đếu chân chánh , không để bất cứ niệm nào xen vào . Chúng ta thường xuyên tỉnh táo đề phòng khi mắt thấy sắc , tai nghe thanh , mũi ngửi mùi hương , lưỡi liếm vị …Nói chung , khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần , nếu có ác niệm nào khởi lên thì lập tức phải tìm ra nguyên nhân để đoạn trừ , không để cho tâm tham , tâm sân , tâm si dấy động . Thế nên Phật dạy : “ Với tâm không bị khuấy đục , biết được lợi ích cuả người hay biết đươc lợi ích cả hai , sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân , tri kiến thù thắng , xứng đáng các bậc Thánh” ( Tăng Chi 1) .

Rõ ràng tỉnh giác là chìa khóa vàng của lối sốnghiệu năng , tích cực và cho ta ý thức trách nhiệm vế thái độhành vi ứng xử với đời trong các mối liên hệ hữu cơ của con người và cuộc sống . Nói một cách chính xác , nó giúp ta nhận ra giá trị bản chất của một cuộc sống với cái tâm trong sángnhu nhuyến , khởi đầu bằng chánh niệm tỉnh giác . Từ đấy , tự thân mỗi người sẽ có đời sống hiền thiện , xa rời đời sống bất thiện .

Kinh Phật phân biệt thiện ác theo ba loại : Thứ nhất là thiện ở nơi hành động của thân , tức là không sát sinh, mà còn phóng sinh , trân trọng sự sống của muon loài , không lấy của không cho mà còn bố thí nữa , giúp người khác bằng của cải vật chất ( tài thí ) , bằng đạo lý ( pháp thí ) bằng lấy sức mạnh che chở kẻ yếu ( vô úy pháp thí ) hay bằng cách chia sẽ niềm vui với người khác ( tùy hỷ thí ) không tà dâm . tà hạnh , mà sống thủy chung trong đạo lý tình yêu , tình nghĩa . Thứ hai là thiện ở lời nói . Cụ thể là nói lời chân thật ,không nói dối ; nói lời dễ nghe , không nói lời tho ác , nói lời đoàn kết , không nói lời chia rẽ ; nói lời hữu ích , có lợi , không nói lời vô nghĩa . Thứ ba là thiện trong ý nghĩ . Cụ thể là không tham lam , không giận dữ .không si mê . Kinh Phật thường gọi là không tham không sân , không si . Ba điều thiện này là ba điều căn bản , vì từ đó khởi sinh mọi lời nói thiện và việc làm thiện , nền tảng của nếp sống đạo đức hiền thiện .

Vậy từ sự chánh niệm tỉnh giác , chúng ta đi đến sự tu tập tâm . Khi tâm được điều phục , được hộ trì , được phòng hộ , được bảo vệ , được đặt đúng hướng , thì nhất định ai cũng được an trú trong sự bình an nội tại . Tự thân bước ra khỏi vòng tâm lý đấu tranh , cạnh tranh , khẩu tranh , hơn thua , dại khôn …Trong cuộc sống thường nhật . Nói như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở hai câu kết của bài thơ dại khôn : “Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp , nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

3- Tiếng nói nội tâm .

Nhờ thường xuyên tỉnh giấc trong quá trình tu tập tâm mà mọi người lắng nghe được tiếng nói chân thật của con người thật , của cái Ta thật , vốn là bản chất đích thực của con người . Tiếng nói đó càng ngày càng rõ , nhờ sự tỉnh giác của chúng ta ngày càng có chiều sâu , nhờ dần dần dẹp yên được tiếng gào thét dục vọng của cái Ta giả , con người giả , trước đây vốn từng thao túngchi phối mình .Tiêng nói của nội tâm là sự yên lặng , một sự yên lặng giúp cho tâm thấy tất cả , biết tất cả , Thiền sư Suzuki từng nói : “ Khi bạn tự chiêm nghiệm mình , bạn sẽ thấy tất cả” .

Rõ ràng , yên lặng ở đây không có nghĩa là không có tiếng ồn . Yên lặng ở đây là nội tâm ta trở nên bình lặng , không còn bức xua và mặc cảm , dù là tự tôn hay tự ti đi nữa . Mọi niệm đều dứt . Trong tâm hoàn toàn trống vắng , không có ý niệm nào cả . Vì còn có niệm là còn có ức chế , bức xúc , khiến chúng ta hao phí năng lượng một cách vô ích . Trái lại , với nội tâm hoàn toàn yên lặng , chúng ta sẽ cảm nhận một trạng thái thư tháihỷ lạc tuyệt vời . Lúc bấy giờ , năng lượng vận động một cách tự do trong toàn thân , đem lại cho chúng ta một sức mạnh , một sức sống mới .

Trần Thái Tông , vị vua đầu tiên đời Trần , từng ngồi một mình lắng nghe tiếng nói nội tâm của mình mà quyết định trở thành Thiền sư , đặt nền tảng tư tưởng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời được diễn trình trong Khóa hư lục

Tâm tịnh nhi tri , thị danh chân Phật” ( lòng lặng mà biết , đó là Phật thật ) . Hóa ra tiếng nói nội tâm là tiếng nói Phật tâm , được xuất phát từ cõi lòng mình . Còn Thiền sư Kiều Trí Huyền thì mô tả tiếng nói nội tâm thật huyền bí , kỳ diệu và thật cụ thể cho mọi người : “ Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm , Cá trung mãn mục thị thiền tâm , Hà sa cảnh thị Bồ-đề cảnh , Nghĩ cách Bồ-đề cách vạn tầm” . ( Trong viên ngọc phát ra âm thanh huyền bí kỳ diệu , Ở đó khắp nơi là tâm thiền , Tất cà cảnh giới đều là cảnh giới giác ngộ ( Bồ-đề ) . Ấy thế mà lại đi tìm Bồ-đề cách xa hàng vạn dặm ) . Ngọc ở đây là nội tâm , âm tanh kỳ diệu huyền bí ở đây là sự im lặng . Thiền tâmtâm giác ngộ . Cảnh Bồ-đề là cảnh giác ngộ . Giác ngộgiải thoát đều ở trong thế giới thực tại này cả , đâu cần đi tìm cách xa đây hàng vạn dặm ?

Con người hiện đại dường như khôngthời gian cho việc lắng nghe tiếng nói nội tâm và suy nghiệm về đời sống của chính mình . Xung quanh ta , thật sự có quá nhiều tiếng nói , âm thanh ngôn ngữ khác nhau , buộc con người phải nghe , để giải trình cho quan điểm của mình về một đời sống đầy biến động và thay đổi qua tư duy khái niệm được xem như là công cụ để trao đổi ; nhưng vướng mắc , chắp nhận vào chúng thì đó chính là hàng rào ngăn cách không cho chúng ta thực nghiệm nội tâm theo chiều sâu .

Sách Phật có câu : “ Ngôn ngữ đạo đoạn , tâm hành xứ diệt” , ý tứ của câu trên là mỗi người muốn lắng nghe tiếng nói nội tâm đích thực , muốn hòa mình vào sự im lặng của nội tâm sâu thẳm thì phải biết cắt đứt ngôn ngữdiệt trừ tư duy khái niệm . Chính sự an trú vào tâm tỉnh lặng trong một thế giới bình an nội tại sẽ khiến chúng ta có cái nhìn chánh kiến , thiết thực hiện tại : “Thở vào tâm tỉnh lặng . Thở ra miệng mĩm cười . An trú trong hiện tại . Giây phút thật tuyệt vời” . Người Phật tử hiểu đạo thì phải thường xuyên lắng nghe sự im lặng của nội tâm , âm thanh huyền bí và kỳ diệu của sự im lặng đó . Đây chính là giá trị đích thực của cuộc sống khi chúng ta thực thi tiếng nói đích thực của lòng mình trong sự tìm cầu hạnh phúc an lạc .

Trên đây là ba chân giá trị mả kho báu Phật giáo cung cấp cho chúng ta . Tất cả đã được Đức Phật Thích Ca và các bậc Thánh , các Thiền sư và cả những con người tu tập minh chứng giải trình . Bất cứ ai lãnh hội giá trị đích thực của cuộc sống này , tin chắc rằng sẽ có một đời sống hiện tại lạc trú , thậm chí cánh cửa vô sinh bất tử sẽ mở ra ngay trong cõi đời trần tục này .

Thích Phước Đạt
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 132

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8822)
Theo quan điểm Phật Giáo, đau khổsự thật mà không ai có thể trốn tránh được. Chúng ta ai rồi cũng phải đối mặt với sự già nua, sự đau ốm...
(Xem: 8739)
Đặc thù của tướng mạo có quan hệ với sự di truyền của bố mẹ, như màu da sắc tộc, tính nết của con người hoặc đẹp hay xấu đều ảnh hưởng nửa đời trước của chính mình,
(Xem: 8469)
Phòng hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tắm trong ánh nắng dịu dàng của buổi sáng.
(Xem: 8548)
Đức Phật thành tựu giác ngộ cũng nhờ nương theo tinh thần trung đạo, tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnh.
(Xem: 8716)
Nếu muốn mang lại cho mình sự bình lặng thì các bạn phải thực hiện được nó trên tất cả mọi mặt.
(Xem: 7745)
Bậc chứng thánh, bậc chân tu thực sự có công phu, sống trong tịnh pháp, phần lớn đều là những người vô bệnh.
(Xem: 11764)
Phải chăng còn tùy vào căn cơ của mỗi chúng ta nhận nhiều hay ít, nhưng dòng sông không biết đợi mà sẽ chảy hoài chảy mãi không thôi...
(Xem: 21916)
Phật dạy: với người không có duyên, ta dù có nói bao nhiêu lời và dùng nhiều phương tiện thiện xão cũng bằng thừa.
(Xem: 7981)
Các pháp hữu vivô thường, có được rồi cũng sẽ mất, có thành thì phải biến hoại, có sinh thì ắt sẽ bị già bệnh chết.
(Xem: 9490)
Jürgen Habermas sinh năm 1929 là giáo sư Triết học tại Đại học Frankfurt (Đức) mà tên tuổi cuả ông gắn liền với Trường phái Triết học Frankfurt.
(Xem: 14248)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành thời gian cả cuộc đời mình cho Phật giáo, với mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người.
(Xem: 9240)
Kinh vô lượng nghĩa. Vô lượng trước hết nên hiểu nghĩa từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao.
(Xem: 8994)
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên.
(Xem: 8376)
Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đề...
(Xem: 8699)
Lời khuyên của Đức Phật là khi làm từ thiện, chúng ta hãy kêu gọi những người khác cùng chung-sức với mình, như thế ...
(Xem: 9864)
Muốn sống với chân hạnh phúc xin hãy chặt đứt mọi vọng tưởng điên đảo. Khi vọng tưởng điên đảo chấm dứt thì Chân Tâm sáng tỏ.
(Xem: 9571)
Thở vào để hàm dưỡng sinh lực, thở ra với lòng lành hướng về tất cả chúng sinh.
(Xem: 9471)
Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình.
(Xem: 8798)
Chúng ta cần phải lưu ý đến một điểm thật quan trọng và tế nhị là dù mình đã đạt được nhiều kinh nghiệm luyện tập thiền định.
(Xem: 9594)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt, thì không tốt-đẹp cho bằng người chỉ sống một-ngày mà hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 8282)
Không phải ngẫu nhiênĐức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”.
(Xem: 9191)
Đức Thánh Thiện không thù ghét người Trung Hoa. Như một vấn đề thực tế, ngài tha thứ họ và không để lòng gì cả.
(Xem: 9544)
Thực hành tính nhẫn nại với động cơ bồ-đề tâm được coi là nhẫn nại ba-la-mật hay sự nhẫn nại hoàn hảo.
(Xem: 9002)
Một trong những khổ đau dai dẳng của kiếp người là sự lo sợ, lo nghĩ, lo phiền, ưu tư, sầu muộn.
(Xem: 9329)
Theo quan điểm của giáo lý Phật giáo sự bất công trong đời sống chứa đựng nhiều nguyên nhân. Có những nguyên nhân...
(Xem: 21412)
Trăm năm trước thì ta chẳng có, Trăm năm sau có cũng như không. Cuộc đời sắc sắc không không, Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi
(Xem: 8971)
Ban rải lòng từ, đem tình thương đến với mọi người, mọi loài và nỗ lực bảo vệ sự sống là sứ mạng của những người con Phật.
(Xem: 9454)
Bước vào con đường tu tập Dhamma (Đạo Pháp) mà không giữ được quân bình giữa sự tập trung (concentration/sự chú tâm) và sự quán thấy (discernement/sự nhận thức) thì ...
(Xem: 8788)
Một số người có duyên lành trải qua kinh nghiệm cận tử, sau khi thoát nạn thì thay đổi hoàn toàn từ nhận thức, quan niệm sống đến hành xử theo hướng thiện lành.
(Xem: 9186)
Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo-Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.
(Xem: 10676)
Từ bùn lầy hoa sen vươn lên và nở hoa thơm ngát, cũng vậy, ai cũng có khả năng giác ngộ giải thoát như nhau.
(Xem: 9081)
Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã ...
(Xem: 10183)
“Vô Thường! Vô Thường!” Đây là đặc tính vi diệu, khó thấy thứ nhất của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng.
(Xem: 9552)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng...
(Xem: 8821)
Chúng ta phải làm thế nào để có thể quán thấy thật minh bạch năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) - tức là cả cái khối "thân-xác-tâm-thức" gây ra đủ mọi thứ khổ đau và căng thẳng.
(Xem: 8731)
Qua các thời kỳ thật xa xưa, kể cả thời đại khi Đức Phật còn tại thế, nhiều phụ nữ cũng đã đạt được chánh quảtrở thành arhat/A-la-hán
(Xem: 9228)
Trong cuộc đời luôn có nhiều hoàn cảnh trái ngược nhau với nhiều nỗi niềm mà con người phải trải qua.
(Xem: 8472)
Bệnh tật là một trong những nỗi khổ lớn của chúng sinh. Ai cũng đã từng trải qua đau ốm nên phần nào thấu hiểu sự khổ não của bệnh tật.
(Xem: 9844)
Sống ở đời, chỉ có thiện tâm mới có thể khiến người ta thay đổi, còn hận thù thì chỉ khiến lòng người ngày càng thêm xa cách mà thôi.
(Xem: 10175)
Hình chữ Vạn vốn là biểu tượng biểu thị tính chất tốt lành của dân tộc Ấn Độ cổ đại nói riêng và của cả chủng người Aryan nói chung.
(Xem: 17096)
Mấy tháng nay, Chú Pháp Đăng lúc nào cũng ngồi một mình trầm tư ngay gốc cây Sala ở phía trước chùa sau những thời kinh Tịnh Độ.
(Xem: 10563)
Thả tự do cho những người trong căn phòng tối tăm kia, cũng chính là thả tự do cho chính bản thân mình đấy! Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình.
(Xem: 9789)
Xét về nghiệp quả nhân duyên giữa cha mẹ và con cái, nhà Phật cho rằng: Con cái đến với cha mẹ ở kiếp này là có 4 loại.
(Xem: 11140)
Đã làm người trong trời đất, ai cũng muốn công danh tột đỉnh, giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng.
(Xem: 22199)
Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, sự diễn biến từ nhân đến quả còn tùy thuộc vào các duyên, nhân quả có thể báo ứng liền tức khắc như ...
(Xem: 8730)
Kinh Thiện pháp (Trung A-hàm) có nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu cũng có an lạc, đem đến lợi ích cho mọi người.
(Xem: 8134)
Tổng Thống Václv Havel mời Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhà tư tưởng thế giới đến Prague cho một hội nghị chuyên đề về giáo dụcgiá trị tâm linh.
(Xem: 7980)
Phật giáo là những phương pháp, những con đường để con người thực hiện hạnh phúc;
(Xem: 8958)
Bất cứ thứ gì chúng ta ngỡ là hạnh phúc thì thật ra lại là nguyên nhân gây ra khổ đau. Có thể điều này rất khó chấp nhận nhưng đây là một chân lý sâu xa.
(Xem: 15810)
Bố thícúng dường hay giúp đỡ sẻ chia là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ-tát, người Phật tử chân chính noi theo gương hạnh người xưa mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant