Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ẩn sĩ lừa dối

03 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 18627)
Ẩn sĩ lừa dối

blank

Trong khi trú tại tinh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện này về một kẻ lừa đảo.

* * *

Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am gần một ngôi làng ở vùng biên địa. Vị này đã chứng được năm Thắng trí và rất được dân làng kính trọng. Trong khi đó, Tắc kè sống tại một gò mối nằm ở cuối con đường mà vị ẩn sĩ đi kinh hành, và mỗi ngày hai hoặc ba lần Tắc kè đi đến chỗ ẩn sĩ để nghe giảng pháp. Và vì kính trọng bậc giới đức này nên Tắc kè đã rời bỏ trú xứ của mình để đến đấy sống. Sau một thời gian, vị ẩn sĩ tạm biệt dân làng và ra đi. Khi vị này đi rồi, có một ẩn sĩ giả dối đến thảo am ấy sống. Nghĩ rằng người mới đến này cũng đầy đủ giới đức, Tắc kè đã đối xử với ông ta như đối với vị ẩn sĩ trước đây.

Một hôm, vào mùa khô hạn, một cơn mưa dông bất chợt đổ xuống và trận mưa đã làm cho những con kiến bò ra khỏi tổ. Rồi khi những con tắc kè bò ra ngoài để ăn kiến, chúng đã bị dân làng bắt đi rất nhiều. Chúng được xào trộn với dấm và đường để đem cúng cho vị ẩn sĩ. Khoái khẩu với món ăn này, vị ẩn sĩ bèn hỏi đó là món thịt gì và được trả lời cho biết đó là món thịt tắc kè.

Nghe thế, vị ẩn sĩ nghĩ ngay đến con Tắc kè xinh đẹp sống gần thảo am của mình và quyết định giết chết nó để ăn thịt. Thế là ông ta chuẩn bị sẵn xoong chảo cùng với gia vị để xào nấu thịt tắc kè. Rồi dấu một cái vồ bên dưới chiếc y, ông ta ngồi nơi cửa thảo am chờ Tắc kè đến với một thái độ hết sức bình thản. Vào buổi chiều, Tắc kè đi đến. Và khi đi đến gần, Tắc kè nhìn thấy vị ẩn sĩ ấy hoàn toàn không giống với thường ngày: ông ta ngồi chờ mình với một thái độ báo hiệu điều gì đó không tốt sắp xảy ra. Đứng phía dưới ngọn gió từ hướng thảo am của vị ẩn sĩ, Tắc kè ngửi thấy mùi thịt tắc kè, và ngay lập tức nhận ra rằng chính mùi vị thịt tắc kè đã khiến cho ẩn sĩ kia muốn dùng vồ giết mình ăn thịt. Vì thế, Tắc kè bèn quay lại hang của mình mà không viếng thăm vị ẩn sĩ nữa. Nhìn thấy Tắc kè không đến, vị ẩn sĩ nghĩ rằng Tắc kè chắc đã đoán biết mưu đồ của mình, và ông ta phân vân không biết vì sao Tắc kè lại biết được điều đó. Quyết không để Tắc kè trốn thoát, vị ẩn sĩ liền rút cái vồ ra và ném vào Tắc kè, nhưng cái vồ chỉ trúng vào mút đuôi. Nhanh như cắt, Tắc kè chạy vội vào hang, rồi sau đó thò đầu ra một cái lỗ khác và nói:

- Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?

Quở trách vị ẩn sĩ lừa dối như vậy xong, Tắc kè đọc lên bài kệ này:

Tóc bện cùng với y vỏ cây
Phải chăng bắt chước vị trước đây?
Ngươi thật không phải người giới hạnh
Dơ bẩn xấu xa ngươi chứa đầy.

Bằng bài kệ này, Tắc kè đã vạch trần tâm địa độc ác xấu xa của vị ẩn sĩ, rồi sau đó rút vào trong gò mối. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh độc ác kia sau đó đã bỏ đi nơi khác.

* * *

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Thuở đó, kẻ lừa dối này là ẩn sĩ độc ác, Xá-lợi-phất là vị ẩn sĩgiới hạnh mà trước đó đã sống ở thảo am, còn ta chính là con Tắc kè.
(Tiền thân Godha, số 138, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bàn:

Khoác lên mình chiếc áo của một người tu, bề ngoài tỏ ra có đầy đủ đức hạnh, nhưng bên trong lại đầy tham dụcdối trá thì đây là một kẻ nguy hiểm và đáng sợ nhất. Bởi vì với một hình thức bề ngoài như vậy, kẻ này rất dễ dàng đánh lừa người khác, vì thói thường người ta vẫn hay nhìn nhận người khác qua hình tướng bên ngoài. Câu chuyện Tiền thân trên đây là một minh chứng cho điều đó:

Vị ẩn sĩ kia là một kẻ đầy tham dục, lòng còn chứa đầy dối trá, nhưng với y áo và cái lốt của một ẩn sĩ, ông ta đã dễ dàng đánh lừa được tắc kè trong một thời gian dài. Và tắc kè, vì tin tưởngtôn kính, chút nữa đã bị mất mạngcon người này. Nhưng may cho tắc kè là cuối cùng nó đã kịp phát hiện ra được bản chất của con người này. Và lời mà tắc kè nói với vị ẩn sĩ được trích dẫn lại sau đây là điều khiến chúng ta cần phải suy ngẫm, và cũng là bài học được rút ra từ câu chuyện này: “Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?”

Nguồn: Tập San Pháp Luân 16

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12965)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13948)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21995)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18626)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant