Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xaloại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần

30 Tháng Mười Một 201416:57(Xem: 10711)
Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xa và loại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần

 

Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xa

loại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần

 

Ajahn Mun

 Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

Lời giới thiệu của người dịch

 

          Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát). Quyển sách gồm tất cả 17 phần:

 

Phần 1: Tu tập là phải bảo toàn Đạo Pháp thật tinh khiết

 

Phần 2: Nếu muốn bước theo các vết chân của Đức Phật thì trước hết phải tự mình luyện tập trước đã và sau đó thì mới có thể luyện tập cho kẻ khác

 

Phần 3: Nguồn gốc mà mình được thừa hưởng sẽ là vốn liếng giúp mình tự luyện tập

 

Phần / Phần 4: Nền tảng căn bản của việc luyện tập

 

Phần 5: Nguyên nhân cội rễ của tất cả mọi thứ trong vũ trụ

 

Phần 6: Căn nguyên khởi động chu kỳ xoay vần của cái chết và sự tái sinh

 

Phần 7: Vị thế tối thượng: căn bản giúp mình bước vào con đường, thực hiện kết quả và niết-bàn

 

Phần 8: Thành trì bảo vệ sự tu tập của chính mình.

 

Phần 9: Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xaloại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần

 

Phần 10: Từ bản chất tâm thức nguyên sinh trong sáng và rạng ngời thế nhưng đã bị các thứ ô nhiễm tâm thần biến thành u mê.

 

Phần 11: Phương cách luyện tập của một người hành thiền phải thích nghi với tính khí của người ấy.

 

Phần 12: Bài giảng về Mulatika

 

Phần 13: Chỉ có các vị visuddhi deva mới thật sự đạt được sự an bình

 

Phần 14: Sự bất động là điểm tột cùng của thế giới, vượt lên trên mọi sự giả định và tạo dựng tâm thần.

 

Phần 15: Năm cõi chúng sinh

 

Phần 16: Ý nghĩa trong bài thuyết giảng thứ nhất, trong bài thuyết giảng ở giữa và trong bài thuyết giảng cuối cùng.

 

Phần 17: Bất cứ một vị A-la-hán nào nếu muốn đạt được sự Giải Thoát bằng sự tập trung và bằng trí tuệ thì đều phải luyện tập đến chỗ tột cùng của phép tu về ba điểm.

 

          Bài chuyển ngữ dưới đây là phần 9 của quyển sách. Phần 10 đã được chuyển ngữ và người đọc có thể xem trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen. Ngoài ra độc giả cũng có thể tham khảo toàn bộ quyển sách này qua bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu và tiếng Pháp của bà Jeanne Schut trên các trang mạng sau đây:

 

          - tiếng Anh: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/mun/released.html

          - tiếng Pháp: http://www.dhammadelaforet.org/sommaire/mun/coeur_libere.pdf

 

 

Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xa

loại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần

 

Ajahn Mun

 

 

          Trên nguyên tắc những gì tốt đẹp sinh ra từ những gì không tốt đẹp. Quý vị hãy nhìn vào những cánh hoa sen thì sẽ rõ: chẳng phải là xinh đẹp và tươi mát hay sao! Những cánh hoa ấy mọc trong bùn đất dơ bẩn và hôi tanh, thế nhưng một khi đã vươn lên khỏi bùn thì hoa lại trở nên sạch sẽ và tinh khiết. Người ta có thể kết các cánh hoa ấy lại để làm vương miện cho một vị vua, bởi vì các cánh hoa ấy sẽ không còn quay lại với lớp bùn nhơ trước đây nữa (một người tu tập đạt được giải thoát sẽ không còn quay lại với thế giới luân hồi). Cánh hoa sen cũng là hình ảnh của một người hành thiền nghiêm chỉnh cố gắng và luyện tập kiên trì. Người hành thiền ấy phải tìm hiểu thật sâu xa về một thứ gì đó thật dơ bẩn và kinh tởm mới có thể nhờ đó mà giúp mình loại bỏ được tất cả những gì dơ bẩn và kinh tởm trong tâm thức mình. Cái thứ thật dơ bẩn và kinh tởm ấy chính là thân xác mình. Cái thân xác đó là kết quả của một sự kết hợp gồm các thứ dơ bẩn, nước tiểu và phẩn. Những gì tiết ra từ tóc trên đầu, lông trên người, các lỗ hổng, móng chân, móng tay, răng, da, v.v. tất cả cũng chẳng khác gì như phẩn (những thứ bài tiết). Nếu các thứ ấy lỡ mà rơi vào đĩa thức ăn thì người ta sẽ trút bỏ đi ngay, bởi vì không ai muốn ăn những thứ ấy cả. Hơn nữa thân thể cũng phải được thường xuyên tắm gội, kỳ cọ hầu giúp nó có vẻ dễ nhìn hơn. Nếu không tắm thì nó sẽ toát ra mùi hôi đến độ có thể khiến người khác phải tránh ra xa. Quần áo và các thứ phụ kiện khác (quần áo lót chẳng hạn, một nhà sư không muốn nói đến các thứ ấy) khi không dính vào thân xác thì sạch và có vẻ hấp dẫn, thế nhưng cứ hễ dính vào thân xác rồi thì sẽ trở nên dơ bẩn ngay, nếu lâu ngày không giặt thì sẽ có mùi hôi không ai dám đến gần.

 

          Những gì trên đây cho thấy rằng thân xác cũng chỉ là một cái bọc chứa nước tiểu và phẩn, và cũng chỉ là asubha (tiếng Pa-li là xấu xí)patikkula (tiếng Pa-li là kinh tởm). Ngay khi thân xác còn mang sự sống thì nó cũng đã là như thế, đến khi sự sống rời bỏ nó thì nó sẽ còn trở nên kinh tởm hơn nữa, kinh tởm hơn bất cứ một thứ gì khác. Vì thế một người hành thiền nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới bắt đầu đã phải luyện tập thật đúng phương pháp nhằm giúp mình tìm hiểu thân xác mình, và phải thật kiên trì cho đến khi nào có thể hiểu được tường tận bản chất đích thật của nó. Nếu muốn đạt được sự trong sáng ấy thì người hành thiền phải phân tích và tìm hiểu bất cứ một thành phần nào của thân thể tỏ ra thích nghi với mình hơn cả (phù hợp với các mối quan tâmtính khí của mình) cho đến khi nào một thể dạng của thân xác hiện ra với mình dưới hình thức uggaha nimitta (chữ uggata có nghĩa là một sự quán thấy hay hiển lộ/arise, ascend; chữ nimitta có nghĩa là lý do, nguyên nhân hay động cơ thúc đẩy/reason, motive, và chữ này trong tiếng Pa-li cũng đồng nghĩa với chữ hetu, một thuật ngữ quen thuộc hơn trong kinh sách và có nghĩa là nguồn gốc hay nguyên nhân. Do đó có thể hiểu ý nghĩa của các chữ này là một "sự hiển lộ nguyên nhân" hay "quán thấy sự khơi động"). Sau đó người hành thiền phải hướng sự chú tâm vào đấy và thường xuyên luyện tập hầu giúp mình phát huy một sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn.

 

          Vậy câu phát biểu "phải thường xuyên luyện tập và phát huy một sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn" có nghĩa là gì? Nếu muốn hiểu được câu này thì phải dựa vào hình ảnh sau đây: nếu muốn trồng lúa thì người nông dân phải cày bừa thửa ruộng của mình, sau đó mới trồng lúa vào đất. Năm sau cũng lại phải trồng lúa vào đất. Người nông dân không thể nào trồng lúa trong không khí hay ở lưng từng trời được mà chỉ có thể trồng lúa vào đất mà thôi, sau đó thì các cọng lúa cứ thế mà đơm hạt một cách tự nhiên. Nếu biết chăm lo mảnh đất của mình ngày càng tích cực hơn thì người nông dân nào phải cầu khẩn: "Thóc lúa ơi, cầu mong sao cho thóc lúa sẽ kéo đến chứa ngập các vựa lúa của tôi". Thóc lúa chỉ kéo đến một cách tự nhiên mà thôi (các cọng lúa chỉ đơm hạt một cách tự nhiên khi các điều kiện hội đủ, không nhờ vào sự cầu khẩn mà đơm hạt). Ngay cả trong trường hợp nếu người nông dân không muốn thóc lúa kéo đến chất chứa trong kho của mình thì dù có cầu khẩn: "Thóc lúa ơi, mong sao thóc lúa đừng kéo đến chất đầy các kho lúa của tôi nhé", thì thóc lúa cũng cứ kéo đến chứa đầy các vựa lúa khi mà mình đã chăm sóc mảnh đất thật đúng cách (làm việc phải và dù không hề cầu mong một sự hồi đáp nào thế nhưng phúc hạnh cũng sẽ đến với mình một cách tự nhiên).

       

          Cũng thế, với tư cách là những người hành thiền nghiêm chỉnh chúng ta phải luôn tìm hiểu thân xác mình qua một thành phần thân thể nào đó mà mình thường quan tâm nhiều nhất, hoặc hiện ra với mình trước nhất mỗi khi nghĩ đến (tức là những thành phần thân xác ám ảnh mình nhiều nhất, chẳng hạn như vóc dáng, khuyết tật, cơ quan sinh dục... chẳng hạn là những gì liên hệ đến tính dụcbản năng truyền giống, hoặc các cơ quan dinh dưỡng, sức khỏe và các dấu hiệu già nua liên hệ đến bản năng sinh tồn). Sau đó và dù đấy là thành phần nào mà mình đã chọn thì cũng không được lơ là hoặc quên đi và không nghĩ đến nữa, Thường xuyên luyện tập không có nghĩa là chỉ luyện tập trong lúc hành thiền, dù bằng cách ngồi hay đi, mà phải chú tâmvận động mọi việc tìm hiểu của mình trong bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào. Dù đang ngồi, đang đứng hay đang đi, dù đang ăn, đang uống hay đang làm việc, đang suy nghĩ hay nói năng, thì chúng ta cũng phải phát huy một sự tỉnh giác bao quát hướng vào thực tại. Đấy có nghĩa là "cách luyện tập không ngưng nghỉ" (nói cách khác thì đấy là sự "chú tâm": một người tu tập chân chính không nên đánh mất một giây phút nào trong cuộc sống của mình, không để cho tâm thức mình bi xao lãng bởi bất cứ một sự sinh hoạt nào, sự chú tâm đó trước hết sẽ giúp mình tìm thấy một sự thăng bằng trong nội tâm và giúp mình tìm hiểu ngày càng sâu sắc hơn về Đạo Pháp, về bản chất của chính mình, về thế giới hiện tượng đang biến động chung quanh mình. Đấy là cách giúp mình trông thấy ngày càng minh bạch hơn con đường mà mình đang bước đi)

 

          Nếu muốn tìm hiểu thân xác mình hầu giúp mình thấu triệt sâu xa về bản chất của nó thì quý vị phải phân chia nó ra thành nhiều thành phần tùy theo ý mình. Chẳng hạn như quý vị hình dung thân xác mình qua các thành phần cấu tạo ra nó - chẳng hạn như đất, nước, lửa và khí - và cứ theo đó mà quán xét không ngừng cho đến khi nào hiểu được ý nghĩa của các thuật ngữ chỉ định ấy. Ở cấp bậc này, quý vị có thể sử dụng bất cứ phương pháp nào thích hợp với mình, thế nhưng tuyệt nhiên không được lơ là và bỏ ngang không chú tâm vào điểm khởi đầu đã hiện ra với mình trước đây (điểm khởi đầu trong trường hợp này là bốn thành phần đất, nước, lửa và khí tạo ra thân xác). Không nên luyện tập một lần rồi sau đó bỏ qua và không nghĩ đến nữa trong suốt mười lăm ngày hay một tháng. Hãy quán xét điều ấy qua mọi khía cạnh: bên trong, bên ngoài, bên trên, bên dưới, lập đi lập lại không ngừng. Nói cách khác là hãy quán nhìn vào nội tâm nhằm mang lại sự an bình và sau đó lại tiếp tục tìm hiểu thân xác - không nên chỉ biết suy tư về thân xác hoặc duy nhất chỉ phát huy sự thăng bằng nội tâm (đây chính là một cách nói dễ hiểuđơn giản về hai thể dạng khác nhau trong phép thiền định là sự chú tâmsự quán thấy. Nếu không chú tâm giúp cho tâm thức được thăng bằng tức là "định" thì không thể nào có thể phát động được sự hiểu biết sâu xa tức là "quán". Nếu "định" được tâm mà không lợi dụng thể dạng thăng bằng và yên lặng đó của nó để "quán" thấy thì cũng chỉ là vô ích mà thôi)


          Khi nào đã thuần thục và quán thấy thân xác mình một cách thật sâu sắc đúng với bản chất là như thế của nó, thì khi đó kết quả sẽ hiện ra với mình một cách thật tự nhiên: tâm thức sẽ nhận biết được một sự hội tụ thật sâu xa - tất cả dường như đều tập trung lại và trở thánh một thể dạng đồng nhất: toàn thể thế giới chỉ là một sự kết hợp giữa các thành phần (trong trường hợp quán tưởng về bốn thể dạng đất, nước, lửa và khí thì sẽ quán thấy toàn thế giới cũng chỉ là một thể dạng cấu hợp của bốn thành phần ấy). Và cũng đúng vào lúc ấy một hình ảnh hiện sẽ ra với mình, cho thấy thế giới phẳng lì tương tự như mặt một chiếc trống, bởi vì toàn thể thế giới cũng chỉ mang cùng một bản chất tự tại (inherent/nội tại)thuần nhất. Rừng rậm, núi non, con người, súc vật và cả chính mình, tất cả cũng sẽ được quán thấy ở một cấp bậc đồng nhất như nhau (không còn một sự phân biệt hay diễn đạt nào trong tâm thức). Từ sự quán thấy ấy sẽ hiện ra một sự hiểu biết giúp mình loại bỏ vĩnh viễn tất cả những thứ nghi ngờ trong con tim cũng như trong tâm trí của mình (khi nào quán thấy con ngườithế giới tất cả hiện ra dưới một thể dạng đồng nhất thì mọi sự diễn đạt, thắc mắc cũng như các xúc cảm - ghét bỏ, hận thù, yêu thích, si mê... cũng sẽ tan biến hết). Người ta gọi đấy là yatha-bhuta-nana-dassana-vipassana: tức là sự hiểu biết sâu xa giúp mình trông thấy và hiểu được mọi sự vật cũng chỉ là như thế (tức là một sự buông xả toàn diệntuyệt đối).

 

          Những gì nêu lên trên đây chưa thật sự là giai đoạn cuối cùng của con đường mà chỉ là điểm khởi đầu của một giai đoạn mới tiếp theo sau đó. Với tư cách một người hành thiền nghiêm chỉnh chúng ta phải tiếp tục luyện tập thật kiên trì không hề mệt mỏi, hầu giúp mình chủ động một cách toàn diệntuyệt đối sự hiểu biết trong sáng ấy về mọi sự vật. Nhờ đó chúng ta sẽ nhận thấy rằng các thứ tạo tác tâm thần khiến mình tưởng tượng ra: "Tôi là thế này" hoặc "Cái này là của tôi" không phải là những thực thể vững bền, và nếu nhìn chúng dưới một khía cạnh khác là sự bám víu thì chúng cũng sẽ chỉ là nguốn gốc mang lại khổ đau mà thôi. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng các thành phần luôn luôn trung thực với [bản chất của] chúng: tức hiện ra, già nua, bệnh tật và chết; chúng bắt đầu thoái hóa ngay từ trước khi được sinh ra đời (từ trong tử cung các thành phần cũng đã bắt đầu "thoái hóa" có nghĩa là hiện tượng già nua đã bắt đầu khởi sự với một bào thai, kể cả trong quá khứ các thành phần thân xác của các kiếp sống trước cũng đã từng thoái hóa để trở thành đất, nước, lửa và khí), chúng vận hành như thế từ những thời gian vô tận. Vì nguyên nhân trói buộc giữa các điều kiện (tức là sự tạo tác do điều kiện mà có/condionned co-production/interdependence/lý duyên khởi) tạo ra thân xác và tâm thức mình - tức là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn)  gồm rupa (sắc/hình tướng), vedana (thụ/giác cảm), sanna (tưởng/các cảm nhận tâm thần, sự tưởng tượng), sankhara (hành/tác ý hay sự tạo nghiệp) và vinnana (tri thức) - nên tư duy và các thứ nhãn hiệu (có nghĩa là các tên gọi: chẳng hạn như cái tôi, cá thể, con người, giới tính, chủng tộc, v.v...) đã được tạo ra và buộc chặt vào các kiếp sống trước và cả kiếp sống này (Đức Đạt-lai Lạt-ma gọi chung những thứ ấy là "vô minh tiên khởi"). Xuyên qua vô số các kiếp sống ấy tâm thức cứ tiếp tục tin một cách sai lầm vào những thứ ấy do chính nó tạo ra. Các thứ tạo tác tâm thần ấy không phải là những gì tự chúng gắn chặt vào nội tâm mình (mà chỉ là kết quả mang lại từ hiện tượng tạo tác tương liên mà thôi). Khi tìm hiểu đến chỗ tột cùng của mọi sự vật thì người ta tất sẽ phải nhận thấy thật minh bạch, không một chút nghi ngờ nào cả, rằng tất cả mọi hiện tượng trong thế giới dù có hàm chứa một tri thức hay không, thì lúc nào cũng chỉ là như thế, luôn trung thực với bản chất của chúng: hiện ra, tự thoái hóa, và cũng chỉ là như thế. 

 

          Đấy cũng là cách mà chúng ta quán nhận được pubbe ananussu tesu dhammesu, có nghĩa là cách thức vận hành [tự nhiên] của mọi hiện tượng (schéma de fonctionnements des phénomènes/regularities of behavior of all elements/sơ đồ, mô hình, quy luật vận hành tự nhiên của mọi hiện tượng, chữ "hiện tượng" trong kinh sách gọi là dhamma, các kinh sách gốc Hán ngữ dịch chữ này là "pháp")  thì lúc nào cũng chỉ là như thế. Dù không có ai bảo cho mình biết điều ấy, thế nhưng chúng ta cũng đều biết chắc chắn tất cả cũng chỉ là như thế. Và vì thế mà Đức Phật cũng đã xác nhận rằng chưa hề có ai nói với Ngài về điều này cả, bởi vì tất cả mọi sự cũng chỉ là như thế từ trước khi Ngài được sinh ra đời. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng mô hình vận hành ấy của tất cả mọi hiện tượng nhất thiết cũng chỉ là như thế. Thế nhưng chỉ vì các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (tức là cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn, còn gọi là "hành", mang chức năng diễn đạt và tưởng tượng nhằm tạo dựng ra đủ mọi thứ trong tâm thức) đã bám víu vào những thứ ấy qua không biết bao nhiêu tiền kiếp, cho nên chúng cứ tiếp tục vận hành tùy thuộc vào những sự giả định (suy diễn) sai lầm ấy của chúng. Tâm thức bị tràn ngập bởi các xu hướng tiềm ẩn (anusaya) đến độ đã khiến nó nhìn vào thực thể của các thứ ấy (các sự tạo tác tâm thần) một cách sai lầm (bằng cách cho rằng các thứ ấy là của mình, là chính mình), và chính vì thế nên sự bám víu vào các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức sẽ [là nguyên nhân] đưa đến các thể dạng hình thành và sự tái sinh (bám víu vào thế giới hiện tượng qua các sự diễn đạt và các sự tạo tác tâm thần của mình sẽ khiến mình tiếp tục gắn liền với thế giới hiện tượng, tái sinh trong thế giới hiện tượngtiếp tục luân hồi bất tận với thế giới ấy).

 

          Khi nào một người hành thiền nghiêm chỉnh phân tích mọi sự vật đến chỗ tột cùng của chúng và nhận thấy được bản chất tự tại (đích thật, nội tại) của chúng thì cũng sẽ nhận thấy rằng:

 

sable sankhara anicca, sable sankhara dukkha

 

(nguyên nghĩa tiếng Pa-li là: tất cả các sự tạo tác tâm thầnvô thường, tất cả các sự tạo tác tâm thần đều là khổ đau. Chữ sankhara có nghĩa là những sự tạo tác tâm thần, tức là nhũng sự diễn đạt, hình dung hay tưởng tượng của tâm thức và là thầnh phần cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn, đưa đến sự hình thành của "tri thức" là thành phần cấu hợp thứ năm trong số năm thứ cấu hợp tạo ra một cá thể. Mạn phép nhắc đi nhắc lại về thành phần này là vì chức năng của nó rất quan trọng, tức là giữ vai trò tạo nghiệp cho một cá thể. Cấu hợp thứ tư này sẽ đưa đến sự hình thành của tri thức và đấy là cấu hợp thứ năm của ngũ uẩn)

 

          [Câu trên đây có nghĩa là] "các hành động tạo tác tâm thần (cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn còn gọi là "hành") - [tức là] các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (conditions de l'esprit/conditions of the mind) đều là những gì mang tính cách vô thường, trong khi đó thế giới của chúng sinh thì lại không biến đổi (constant) (các tạo tác tâm thần - kể cả thân xác và tâm thức của một cá thể - luôn biến độngvô thường, nhưng sự sống nói chung vẫn tiếp tục tồn tạiluân hồi), từ muôn thuở cái thế giới đó cũng chỉ đơn giản là như thế. Quý vị hãy phân tích các điều trên đây dựa vào ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) hầu giúp mình điều chỉnh lại (biến cải) các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức mình (tức là các tạo tác tâm thần, các sự tưởng tượng và diễn đạt của tâm thức) thì tất quý vị sẽ tự mình nhận thấy được chúng đều là vô thường và cũng chỉ là nguồn gốc của khổ đau. Chỉ vì nguyên nhân quý vị không tự mình nhận thấy được chúng (tức là các điều kiện trói buộc tạo ra tâm thức) chỉ là vô thường và là nguồn gốc của khổ đau cho nên quý vị tự để cho mình rơi vào chiếc bẫy giăng ra bởi các thứ tạo tác tâm thần (formations mentales/mental fahioning, còn gọi là sự tạo nghiệp, tức là vai trò của cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn gọi là "hành"). Khi nào quý vị thật sự ý thức được điều ấy thì nó sẽ giúp quý vị biến cảisửa đổi được các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức của quý vị. Và đấy cũng là cách mà quý vị thực hiện được:

 

sankhara sassata natthi 

 

(sankhara: các sự tạo tác tâm thần; sassata: vô tận; natthi: không bao giờ. Nguyên nghĩa của câu này là: "các tạo tác tâm thần không bao giờ là vô tận", nếu nói cách khác thì chúng chỉ là vô thường. Và nếu mở rộng ý nghĩa của câu này thì sẽ hiểu thật dễ dàng rằng "linh hồn " là kết quả của một sự tạo dựng tâm thần, hoặc trực tiếp hơn là một sự tạo tác tâm thần, cho nên nó sẽ không bao giờ là vô tận được. Đối với một người Phật Giáo thì phải hiểu rằng cực lạc, địa ngục, ta bà, chư Phật theo các cách diễn đạt và tưởng của mình qua hình thức của những sự tạo tác tâm thần bên trong tâm thức mình cũng đều là vô thường mà thôi)

 

          [Câu trên đây] có nghĩa là: không có một sự tạo tác tâm thần nào có thể trường tồn mãi mãi được. Các sự tạo tác tâm thần (mental fashionings) cũng chỉ đơn giản là các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (conditions of the mind), và cũng tương tự như ảo giác mà thôi. Do đó khi nào người ta nhận thấy được thật minh bạch từ cả hai phía - một bên là các chúng sinh cũng chỉ đơn giản là như thế, và một bên là các thứ tạo tác tâm thần cũng chỉ đơn giản là các điều kiện [trói buộccần thiết tạo ra] tâm thức do chính tâm thức đã tưởng tượng ra - thì thitibhutam tức tâm thức nguyên sinh sẽ không còn lệ thuộc vào điều kiện nào nữa cả, và nhờ đó nó sẽ được giải thoát (một mặt tâm thức nguyên sinh đứng ra bên ngoài thế giới của sự sống hiện ra qua các hình thức luân hồi bằng cách nhận thấy nó cũng chỉ là như thế, và một mặt khác thì đứng ra ngoài những sự tạo tác tâm thần bằng cách quán nhận được chúng cũng chỉ là những sự tưởng tượng do "cái tôi" tạo dựng ra. Khi nào tâm thức ý thức được vị thế đó của mình thì nó cũng sẽ nhận thấy được thể dạng nguyên sinh của chính nó, và đấy chính là sự Giải Thoát khỏi các điều kiện trói buộc tạo ra nó - conditions of the mind. Một nhà sư sống trong rừng trên miền bắc Thái giữa những người nông dân chất phác thuộc tiền bán thế kỷ XX, đã lưu lại cho chúng ta hôm nay những câu giảng thật trong sáng, đơn giản nhưng vô cùng chính xác, sâu sắc và siêu việt, có thể giúp người tu tập đạt được một cấp bậc giác ngộ nào đó. Ông quả xứng đáng là vị thầy của nhà sư Ajahn Chah. Người chuyển ngữ khiêm tốn và thiển cận này dường như cũng được thừa hưởng lây một chút dư vị nào đó trong những lời giảng huấn thật cao siêu này. Xin chắp tay cảm tạ và cúi đầu bái phục).   

 

          Một khi đã thấu triệt được những lời giáo huấn cho biết rằng tất cả các hiện tượng và các phương cách vận hành chi phối cung cách hành xử [của một cá thể] (schemas de comportement/regularities of behavior/sơ đồ, mô hình hay cấu trúc chi phối sự suy nghĩdiễn đạt của tâm thức đưa đến các sự tạo tác tâm thần) không hề hàm chứa cái "ngã" (cái tôi), thi làm thế nào những thứ ấy tự chúng lại có thể chính là cái "ngã" được? Vai trò duy nhất của chúng (tức là của các hiện tượng và các phương cách hay mô hình vận hành của tâm thức) cũng chỉ đơn giản là làm hiện lên những gì mà chúng phải đảm trách thế thôi. Vì thế nên Đức Phật đã dạy rằng:

 

sabbe dhamma anatta

 

          Có nghĩa là: "Tất cả mọi hiện tượng đều vô ngã".

 

          Với tư cách những người hành thiền nghiêm chỉnh (như chúng ta đã nhận thấy trên đây là mỗi khi nói đến người hành thiền thì nhà sư Ajahn Mun đều nhấn mạnh đến tính cách nghiêm chỉnh của người này. Sở dĩ nêu lên sự lưu ý này là để nhấn mạnh đến một khía cạnh khá lệch lạc của phép thiền định được áp dụng trong thế giới Tây ¨Phương. Một số người Tây Phương hiện nay có xu hướng đồng hóa phép thiền định của Phật Giáo với một phương pháp luyện tập nhằm mục đích cải tạo sức khoẻ, tương tư như một môn thể dục. Đây là một hình thức thoái hóa hay biến dạng vô cùng đáng tiếc đối với giáo lý của Đức Phật. Người tu tập chân chínhnghiêm chỉnh phải ý thức được sự kiện này: thiền định phải là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền quán thấy được bản chất của hiện thực và của chính mình hầu mang lại cho mình sự Giác NgộGiải Thoát) phải tìm hiểu thật sâu xa mọi sự vật hầu nhận thấy thật minh bạch rằng chúng cũng chỉ là như thế, sự nhận thấy ấy sâu xa đến độ giúp cho tâm thức mình thực hiện được một thể dạng hội tụ (một thể dạng tập trung cao độ không còn bị phân tán bởi sự đa dạng và phức tạp của các hiện tượng) khả dĩ giúp mình có thể quán thấy sự kiện ấy thật chính xácsinh động, và cũng đúng vào thời diểm ấy và kèm theo với sự quán thấy ấy một sự hiểu biết hiện ra. Sự kiện đó có gọi là vutthana-gamini vipassana: sự quán thấy sâu sắc và minh bạch mang lại sự hiển lộ (emergence). Khi nào đạt được cấp bậc này thì người hành thiền phải tiếp tục luyện tập thêm cho đến khi nào hoàn toàn chủ động được nó (tức hiểu được mọi sự vật chỉ là như thế một cách thật đơn giản, trực tiếp và tự nhiên), nhưng đồng thời cũng vẫn tiếp tục nhận biết được sự hội tụ giữa tâm thức mình và các sự hiểu biết đi kèm với nó (có nghĩa là quán thấy được bản chất của tất cả mọi hiện tượng chỉ là như thế và đồng thời cũng ý thức được sự vận hành của tâm thức mình giúp mình ý thức được sự kiện ấy). Sự hội tụ đó vận hành ngược chiều (đối nghịch lại) với các xu hướng tiềm ẩn hầu hóa giải chúng, và đồng thời cũng sẽ biến cải mọi sự giả định (các sự tưởng tượng, các khái niệm và các sự diễn đạt máy móc, mang tính cách công thứcsai lầm của tâm thức) trở thành sự Giác Ngộ (nhìn thấy Sự Thật). Tuy nhiên sự hội tụ đó cũng có thể trực tiếp xảy ra ở cấp bậc tâm thức nguyên sinh mà bản chất của nó cũng chỉ đơn giản là như thế, sự hội tụ đó có thể rất mạnh đến độ có thể tạo ra một thể dạng sáng suốt tuyệt đối kèm theo sự hiểu biết:

 

 khina jati nanam hoti

 

          Có nghĩa là "Sự hiểu biết sẽ không còn có một sự tái sinh nào nữa cả" (nguyên nghĩa tiếng Pa-li là "nhận biết được sự chiến thắng về mọi sự hình thành")

 

          Đấy không phải là một sự giả định cũng không phải là một hình thức tạo tác tâm thần nào cả, và cũng không phải là một thứ gì đó mà người ta có thể đạt được bằng sự mong muốn của mình, mà là một thứ gì đó hiện ra chỉ là như thế, và cũng tự chính nó hoàn toàn ý thức được sự kiện ấy (trong thể dạng sáng suốt đó không còn cái tôi nào để mà ý thức về sự chấm dứt của sự tái sinh nữa: sự kiện không còn tái sinh nữa là một sự cảm nhận tự nhiênđột khởi, tự nó cùng lúc vừa là chủ thể vừa là đối tượng. Nói cách khác là Tánh Không của Tánh Không, có nghĩa là Tánh Không tự ý thức về thể dạng Tánh Không hay là sự trống không của chính nó. Cái tôi tự xóa mất trong cái Tánh Không tuyệt đối đó, và đấy chính là sự Giải Thoát).

 

          Những gì trên đây có thể so sánh với các cây lúa. Khi nào biết nuôi dưỡng đúng cách các cây lúa và chăm sóc chúng cẩn thận, thì kết quả - các hạt lúa - sẽ không do bất cứ một sự mong cầu nào mang lại cả: các cọng lúa tự nó đơm hạt. Nếu một người nào đó muốn có gạo ăn nhưng lại lười biếng và không lo chăm sóc ruộng lúa của mình thì người ấy dù hết lòng mong cầu cho đến chết thì cũng sẽ chẳng có được một hạt thóc nào. Điều ấy cũng có thể áp dụng vào việc thực hiện sự Giải Thoát. Thật vậy sự Giải Thoát là một thứ gì đó mà người ta không thể đạt được bằng sự mong muốn. Nếu một người nào đó mong cầu đạt được sự Giải Thoát thế nhưng lại không tu tập đúng đắn, hoặc không tu tập gì cả, mà cứ để cho ngày tháng trôi đi trong sự lười biếng cho đến khi chết, thì nhất định người ấy sẽ chẳng bao giờ thực hiện được sự Giải Thoát.

 

Bures-Sur-Yvette, 29.11.14

Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9523)
Theo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật...
(Xem: 10538)
Rất lạ là có nhiều người không biết thương chính bản thân. Có lẽ do họ nghĩ rằng thương yêu chính bản thân là điều dễ làm nhất trên đời nầy, vì ai cũng lo cho mình là trước nhất.
(Xem: 9355)
Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ
(Xem: 10118)
Đức Phật dạy rằng phá thai chính là lấy đi mạng sống của một con người, đây là một lỗi lầm rất nghiêm trọng.
(Xem: 12085)
Lý tưởng Bồ tát đạo là một danh từ chung cho những ai có tâm xã kỷ vị tha (quên mình vì người).
(Xem: 10296)
Ta chỉ cần trở về với sự tĩnh lặng trong sáng sẵn có, buông bỏ những mong cầu của mình, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì xảy ra với một tình thương.
(Xem: 9353)
Dòng sinh tử, tử sinh được gọi là Luân Hồi. Cái bánh xe quay vòng vòng chẳng tìm ra đâu là khởi điểm, đâu là dứt điểm.
(Xem: 10765)
Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Xem: 14278)
Theo Phật học thì “hãy xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận, si mê nơi chính vườn tâm mình, quét lá và rác rưởi cũng chính là quét đi những cấu bẩn của tự tâm...
(Xem: 8771)
Người tu Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù tu theo bất cứ pháp môn nào thì tâm tịnh và trí sáng là mục tiêu quan trọng cần phải đạt được trong đời sống tu hành.
(Xem: 10268)
Đại từ Đại bi thương chúng sanh, Đại hỷ Đại xả cứu muôn loài...
(Xem: 9008)
Đời sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên được hỗn hợp, bao gồm cả tốt lẫn xấu. Nếu chúng ta chỉ yêu thích cái tốt, ghét cái xấu, thì đời sống tinh thần của mình sẽ trào dâng cảm xúc vui buồn mà thành ra có khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc.
(Xem: 8884)
Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì...
(Xem: 28542)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới.
(Xem: 16026)
Trời thu lạnh nhưng đạo tình ấm ápPhó hội về Quảng Đức để tuyên dươngĐại Hội năm (V) Phật Giáo Việt lệ thườngCứ bốn năm có một lần khoáng đại…
(Xem: 9843)
Thưa mẹ, mẹ có biết không, thời gian, không gian làm cho con run sợ và phẫn uất. Đó là những biên giới đã phân chia tất cả, đã ngăn cách tất cả và làm cho con người lẻ loi và cuộc sống bơ vơ.
(Xem: 11560)
Sự hiện hữu của con trong cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao của bố mẹ. Bởi tình yêu thương vô hạn, bố mẹ sẵn lòng làm tất cả để dành cho con những gì tốt đẹp nhất.
(Xem: 9713)
Ở đây không thể phủ nhận có một vài wedsite Phật giáo trong và ngoài nước đã làm được điều mà bài viết này rất muốn được xem đó là tấm gương soi chung...
(Xem: 9410)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ.
(Xem: 9143)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế.
(Xem: 10583)
Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc...
(Xem: 12304)
Vì không có hiện tượng nào Là không duyên sinh Nên không có hiện tượng nào là không Trống rỗng sự tồn tại cố hữu
(Xem: 9827)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một những Đạo sư Phật Giáo vĩ đại của thế giới hiện tại...
(Xem: 11463)
Tăng li chúng tăng tàn ắt hẳn không thể là sự quy kết một thành viên tăng chỉ xa lìa đại chúng là bị tàn lụi bị hủy diệt, mà đúng hơn là thành viên đó rời khỏi sự thanh tịnhhòa hợp của chúng tăng...
(Xem: 11978)
Người theo Phật gia đem tâm quyết từ bỏ những nguy hiểm của dòng nước, muốn đi trên bề mặt của dòng nước chứ không để nó thấm ướt gót chân mình.
(Xem: 9696)
Nếu quan điềm sai lầm rằng con người và sự vật tồn tại một cách độc lậpnguyên nhân của tất cả những quan điểmcảm xúc ẩn tàng chướng ngại...
(Xem: 9816)
Trong một lần dừng chân tại thị trấn nhỏ dưới rặng núi Cascade, khi tiếp xúc người dân địa phương để tìm hiểu đặc chủng nấm trong vùng...
(Xem: 9911)
Tâm giác ngộ nguyện vọng là mong ước mạnh mẽ để vượt thắng những khuyết điểm của chúng tanhận ra những tiềm lực của chúng ta để làm lợi ích cho mọi người.
(Xem: 12353)
Tâm kinh Bát-nhã có thể xem là bản kinh văn ngắn nhất trong kinh hệ Bát-nhã vì đề cập đến tinh yếu của tư tưởng Bát-nhã chỉ với chưa đầy một trang kinh.
(Xem: 9796)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt.
(Xem: 15657)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 14081)
Dòng đời trôi như dòng sông với thuyền bè xuôi ngược. Lênh đênh trong dòng tử sanh có lắm thứ vui buồn, hạnh phúc thì ít nhưng khổ đau và hiểm nguy lại nhiều.
(Xem: 11893)
Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận.
(Xem: 10044)
Đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni vì lòng đại bi xuất thế, Phật nhật huy hoàng, xua tan màn đêm của vô minh, làm thuyền cứu vớt chúng sanh thoát khỏi ái hà.
(Xem: 10079)
Sống được với lòng bi, chúng ta sẽ cởi mở cuộc sống hạn hẹp của mình trở nên rộng lớn hơn, sâu thẳm hơn.
(Xem: 10087)
Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm.
(Xem: 10649)
Cầu nguyện bình an, phúc lộc đầu xuân là nét văn hóa tín ngưỡng, tâm linh đậm chất nhân văn của tất cả những người con Phật.
(Xem: 9508)
Trong niềm tịnh tín Tam bảo, tin Tăng có vai trò rất quan trọng. Nhờ thâm tín Tăng bảo nên nương tựa tu họcdần dần tăng thêm tin hiểu vào Pháp bảoPhật bảo.
(Xem: 10167)
Kinh Phật có câu “tướng tự tâm sanh” tức dáng vẻ, dung mạo bên ngoài của mình từ nội tâm ở bên trong lưu xuất.
(Xem: 11119)
“Tình dục như một vết ngứa, thà không có vết ngứa ấy thì hơn. Nếu không, chúng ta phải cào đến xước da và chảy máu.”
(Xem: 10570)
Chỉ cần dừng lại tâm ô nhiễm thì điểm tới thanh tịnh hiển bày, dừng tâm sân si thì Cực Lạc quốc độ ngay dưới bước chân ta.
(Xem: 10520)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng: “Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”, nghĩa là: “Sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”.
(Xem: 10467)
Nếu không có Phật, không có giáo lý Ngài hướng dẫn, có lẽ tôi đã tạo tội bằng non. Nhờ Ngài, tôi biết phân biệt thiện ác...
(Xem: 12626)
Chúng ta lỡ hẹn với giây phút hiện tại này không phải vì mình chần chờ, do dự, mà phần lớn cũng tại vì mình cố gắng và mong cầu quá đi thôi.
(Xem: 11066)
Theo bình chọn của tạp chí Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô la (USD). Ông còn là người chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị.
(Xem: 8717)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10185)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11048)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
(Xem: 11022)
Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất.
(Xem: 10063)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant