Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Phật Tử Tin Tưởng Gì?

10 Tháng Mười Một 201619:25(Xem: 9139)
Các Phật Tử Tin Tưởng Gì?
CÁC PHẬT TỬ TIN TƯỞNG GÌ?

HT. Thích Chơn Thiện


 Các Phật Tử Tin Tưởng Gì

Đây là câu hỏi mà nhiều người gần đây khi đối mặt với những lời dạy của Đức Phật thường đặt ra, và sau khi đã quyết nghi, nhiều người tự nguyện tuyên bố mình là đệ tử Đức Phật.

1. Tín ngưỡng trong Phật giáo

Trước hết cần phải hiểu ý nghĩa của từ tín ngưỡng (belief) trong Phật pháp, tín ngưỡng bao hàm lòng tin (faith) hay đức tin và cả hai từ này đối với tín đồ Thiên Chúa giáo đều mang ý nghĩa “tín điều” (creed) (gồm hết những gì gọi là tín ngưỡng) và giáo điều (dogmas – những diễn đạt của nhà thờ áp đặt lên mọi tín đồ thực thụ). 

Trong Phật pháp không có tín điềugiáo điều. Người Phật tử tự do đặt nghi vấn mọi điều Phật pháp. Quả vậy, Bậc Đạo Sư đã từng khích lệ họ làm như thế. Không có gì ngăn cấm người phật tử đặt nhiều nghi vấn, không có lời dạy nào bảo người phật tử phải khép kín tâm trí mình lại, và phải tin tưởng một cách mù quáng.

Sở dĩ như vậy là vì lòng tin trong ý nghĩa của Phật giáo không mang tính chất mù quángbao gồm trí tuệ. Như vậy, một người được thu hút đến Phật pháp bởi vì anh ta có trí tuệ nào đó để trực nhận một ít sự thật trong Phật pháp, trong khi đó, do lòng tin, anh chấp nhận những sự thật của giáo lý như là những gì mà anh ta chưa xác chứng. 

Thực hành Phật pháp, anh ta thấy rằng Phật pháp thực sự hữu hiệu, thực tiễn và như thế lòng tin của anh ta tăng trưởng lên. Khi lòng tin tăng trưởng, anh có thể thực hành sâu xa hơn và như thế anh chứng nghiệm nhiều hơn về sự thật. Do đó lòng tin lại càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn.

Như vậy, thực hành lòng tintrí tuệ bổ túc cho nhau và làm cho nhau mạnh mẽ lên. Trong trường hợp này, cũng như trong nhiều giáo lý của đạo Phật, thật dễ hiểu tại sao Phật pháp được biểu tượng bằng một bánh xe Pháp vì đây là biểu tượng của một sự trưởng thành tích cực cho dẫn chứng trên. 

2. Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy

Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy sẽ đưa đến kết quả là người ta sẽ tự mình chứng nghiệm sự thật của toàn bộ giáo lý Đức Phật trong chính cuộc đời này. Điều này được thực hiện nhờ tinh cần thực hành.

Đức Phật đã bảo đảm cho mọi người rằng họ có thể xác chứng những lời dạy của Ngài khi Ngài tuyên bố rằng giáo lý của Ngài là cái gì để “đến và thấy”, có nghĩa là tìm hiểu cho chính mình thực hiện thử xem nó có hữu hiệu không, điều ấy có thể thực hiện được, vì Đức Phật không quan tâm đến lý luận (những thứ chỉ dẫn đưa con người đi lạc hướng), mà quan tâm đến những phát hiện và những lời dạy về con đường thực tiễn của tiến bộ tâm thức, “con đường hướng nội” mà người trí tự xác chứng cho mình.

3. Phật phápphương pháp chứ không phải là học thuyết

Điểm này đưa đến một sự phân biệt rất quan trọng khác giữa giáo lý của Đức Phậtgiáo lý của hết thảy các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác dạy những học thuyết, tín điềugiáo lý không đưa ngay đến thực chứng (hay thực ra chúng được giả thiết  rằng sẽ được thực chứng) mà phải được chấp nhận với lòng tin. Đức Phật dạy những phương pháp người ta có thể áp dụng vào đời sống riêng của mỗi người và nhanh chóng thấy được lợi ích của sự thực hành ở đây và bây giờ.

Thực vậy, toàn bộ giáo lý Phật giáo đã là một khối lượng những phương pháp uyển chuyển thích hợp nhiều mặt cho từng lúc, từng nơi khác nhau và quan trọng nhất là cho những căn tánh khác nhau của con người. Ngoài việc định nghĩa Đạo Phật là những phương pháp hay những phương tiện thiện xảo, thật chính xác khi nói rằng đạo Phật không có lời dạy nào mà không:

a) Xây dựng trên căn bản

hoặc

b) Dẫn đến sự giác ngộ tối thượng như Đức Phật đã chứng nghiệm

“Xây dựng trên căn bản” có nghĩa là phát khởi từ kinh nghiệm chứng ngộ đã khiến Đức Gotama, vị ẩn sĩ khổ hạnh, trở nên một Bậc Giác ngộ hay một Bậc Giác tỉnh (Đức Phật ở đây là một tước hiệu chứ không phải là một cái tên). “Dẫn đến” nghĩa là tất cả các lời dạy của Đức Phật đều nhằm mục đích là tất cả mọi người thực hiện đều có thể đi đến chứng nghiệm cái đại tuệ mà Đức Phật đã chứng đạt.

4. Ngôi Tam Bảo

Vậy thì Phật tử đặt tin tưởng vào đâu? Họ tin vào ngôi Tam Bảo: Đức Phật, Pháp và Tăng (những đệ tử giác ngộ của Đức Phật). Ở Thái Lan, khi đi đến một ngôi chùa Phật để tụng đọc bằng tiếng Pali cổ mà Đức Phật đã thuyết, tụng đọc những đoạn văn xuôi, những câu kệ tôn kínhtán thán ngôi Tam Bảo, trong những dịp ấy, Phật tử tự hiến mình để đi theo, để hiểu và chứng nhập nội tâm ý nghĩa về Phật, Pháp và Tăng già.(1) (Đức Phật, những lời dạy của Ngài và các đệ tử của Ngài). Phật tử là người nương tựa nơi ngôi Tam Bảo hay đến để nhận sự hướng dẫn của ngôi Tam Bảo vì họ đã tìm thấy ở trong đó những dấu hiệu của chân lý vô úytối thượng.

5. Tôn kính những Bậc Đạo Sư

Chúng ta cần đề cập đến sự tôn kính đối với các bậc thầy về tinh thần, những vị tu sĩ hoặc cư sĩ trong giới Phật giáo. Những bậc Đạo Sư ấy là những “Thiện hữu” cho chúng ta những lời khuyên quý giá, thường dựa vào những chứng đắc mà quý vị ấy đã đạt được một cách khó khăn, chỉ cho chúng ta con đường chân chính đưa đến giải thoát. Hình thức cung kính những Bậc Đạo Sư như thế (những vị đối với những đệ tử trong hiện tại, tiêu biểu cho Đức Phật) và những tranh tượng của chính Bậc Giác Ngộ, mà nếu thiếu đức tính khiêm cung ấy thì người ta chỉ có rất ít hoặc không có tiến bộ tâm thức nào. 

 Chúng ta thấu hiểu rõ ràng, trong tâm lý học Phật giáo, chẳng những tầm ảnh hưởng vào thân, mà những hành động của thân cũng ảnh hưởng vào tâm, cả hai thực sự phụ thuộc nhau. Từ đó có sự cẩn trọng trong lễ lạy, sự thân thiết khi thực hiệnthái độ niệm tưởng cần phải kèm theo. Người ta thường lễ lạy ba lạy liên tục tỏ lòng tôn kính Bậc Giác Ngộ, tôn kính con đường đi đến giác ngộ của Ngài và tôn kính những vị nhờ hành trì theo con đường ấy mà đạt được giải thoát, khỏi những ô nhiễm của tâm và đạt được trí tuệ gọi là giác ngộ.

Việc thực hành Phật pháphiệu quả, đặc biệt về những phần thiền định và rí tuệ, điều này, tùy thuộc rất nhiều vào việc ta có được một người hướng dẫn mà chắc chắnkinh nghiệm nhiều hơn chúng ta hay không. Mặc dù có một vài loại thiền định của Phật giáo mà việc thực hiện không cần có thầy chỉ dẫn, nhưng thông thường thì sự có mặt của thầy vẫn đem lại cho chúng ta nhiều lợi lạc hơn, nếu đây là một vị thiện xảo. Những vị thầy ấy rất đáng kính vì nếu có đủ cả kiến thứctrí tuệ thì các vị thầy ấy giúp ích rất nhiều cho những ai học và thực hành giáo pháp.

Những lễ dâng trong một ngôi chùa

Trong vấn đề tôn kính, hẳn cũng cần phải biết ý nghĩa của nhiều những lễ dâng lên Đức Phật, vì Phật giáo thực sự không chứa đựng cái gì vô nghĩa cả, nếu có sự thực hành vô nghĩa nào thì thực ra đó không phải là giáo lý của Đức Phật.

Có ba lễ dâng thông dụng: hương, hoa, và đèn, cho chúng ta dịp thực hiện một ít thiền quán riêng lẻ trong khi chúng ta dâng lễ. 

- Khi thắp nến hay đèn, chúng ta tác niệm: “Ôi mong sao con được giác ngộ”. 

- Những cây hương được thắp từ ánh lửa nến (hay đèn) ấy (thường là 3 cây hương) với tác niệm “để thành tựu sự giác ngộ ấy”, trong khi mùi hương dịu tỏa khắp mười phương, xin nguyện cho mùi hương đức hạnh của con rải đến khắp cả chúng sinh

- Dâng hoa với hai bàn tay chắp lại ta suy nghĩ: “Cuộc đời này thì ngắn ngủi, cho dù những bông hoa này, ngày hôm nay tươi đẹp ngày mai sẽ úa tàn và vẩn mùi. Cái mà con gọi đây là thân xác thì cũng như thế mà thôi”. 

Hiểu được điều ấy trong cuộc sống trôi chảyvô thường này, người Phật tử nỗ lực duy trìnâng cao tiêu chuẩn giới đức của mình và bước thêm một bước hướng về giác ngộThỉnh thoảng phật tử cũng dâng cúng thực phẩm và nước uống lên hình tượng của Bậc Đạo Sư, dĩ nhiên họ không nghĩ rằng Ngài sẽ dùng, mà chính họ, bằng thái độ sùng đạo, họ chỉ dùng thực phẩm khi nào một ít của phần thực phẩm tốt được dâng cúng Đức Phật trước tiên. Đức Phậttối thượng của loài người, Ngài xứng đáng với những dâng cúng tốt nhất, phần hơn nữa, việc tu tập của người phật tử gồm trong sự chia sẻ những thứ tốt lành cho người khác.

Ba lễ vật thông thường đôi khi còn được nối kết trực tiếp với ngôi Tam Bảo: Những bông hoa, đặc biệthoa sen, là những biểu tượng về Đức Phật

hoa sen mọc lên từ bùn mà không uế nhiễm. Ngay cả một giọt nước cũng không đọng lại trên lá sen. Tương tự như thế, Đức Phật là Bậc Đạo Sư sống giữa thế giới rối rắm của nhục dục mà Ngài vượt lên khỏi nhục dục.

Ngài ở trong thế giới này nhưng ngay cả một ham muốn nhỏ nhặt nhất cũng không ảnh hưởng đến tâm trí Ngài. Đây là biểu tượng của hoa sen. Những bông hoa đẹp khác nhắc nhở tín đồ về những đức tính sáng ngờitốt đẹp của Đức Phật.

Ánh sáng được cúng dường trong trường hợp này là biểu tượng cho Giáo pháp luôn thắp sáng những vùng tối tăm của tâm thức và đem giác ngộ thay thế vô minh. Tăng già (của Bậc Giác ngộ) được biểu tượng bằng hương, bởi vì sự thành tựu giới đức của các vị ấy tỏa rộng mọi hành động của thân, khẩu, ý.

Sau khi đã nói về ý nghĩa của lòng tôn kính của người phật tử, bây giờ chúng ta diễn tảý nghĩa của từng ngôi báu. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh trước rằng ba ngôi báu liên hệ nhau không thể tách rời ra được về mặt tu tậpchứng đắc. Vậy nên không thể có Pháp bảoTăng bảo nếu như không có một Đức Phật xuất hiện trước ở đời. Sự tương tục của Pháp tùy thuộc vào Tăng, nhân tố truyền bá Pháp.

Tăng thì tương tục nếu vẫn còn có những vị tu tậpchứng đắc Pháp. Không thể nói rõ rằng Phật bảo tùy thuộc Pháp bảo như thế nào. Sở dĩ như thế là vì chư Phật có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, Pháp bảo vẫn là mãi mãi chân thật. Thông thường, Pháp bảo được diễn tả là “phi thời gian”, không có một lúc nào là lần đầu tiên Pháp trở nên thật (như trong trường hợp các tôn giáo mắc phải) và cũng không có một lúc nào trong tương lai Pháp không còn là thật nữa. Khi nào còn có đời sống hữu tình thì Giáo pháp này hẳn cần thiết chứa đựng sự thật liên quan đến kinh nghiệm về cuộc đời (và không dính dáng gì tới những lý thuyết hay giáo điều).

Quả thực rằng pháp có thể có lúc bị tạm thời quên đi trong những khoảng thời gian cách quãng giữa những chứng đắc, nhưng ngay cả khi bị quên lãng, Pháp vẫn còn là thật và chờ đợi được phát hiện.

Người đã phát hiện ra tuệ giác cổ xưa, với tính viên mãn và sáng sủa của nó được gọi là một vị Phật, một chứng đắc tâm linh vượt lên tất cả mọi chứng đắc tâm linh. Như vậy quá dễ hiểu lời dạy của những hiền triết Phật giáo về sau này, những người đã nhân cách hóa tinh hoa của Pháp như là sự toàn hảo của trí tuệ mà gọi Pháp là Mẹ của chư Phật.
-----------------

(1) Trong Phật giáo, không có việc “thờ thần tượng”. Hình tượng Đức Phật trong các ngôi chùa gợi cho các Phật tử một số đức tính của Bậc Đạo SưGiáo pháp; hình tượng ấy làm cho họ tưởng niệm đến những đức tính như thế và do đó phát triển chúng trong chính họ. Hình tượng Đức Phật cũng hỗ trợ rất nhiều trong thiền định và có thể được sử dụng để làm an tịnh tâm vào lúc chết.

Lại nữa, không có sự cầu xin trong các tu viện Phật giáo. Người ta không cầu xin một Bậc Đạo Sư đã đạt cứu cánh Niết Bàn hơn 2500 năm rồi; người ta kính ngưỡng và tôn quý Ngài. Sự cầu xin phước lạc cho người ta hoàn toàn xa lạ đối với tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Phật giáo vẫn nhằm thực hiện vô ngã.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25127)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21995)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18628)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant