Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khái Quát Một Số Nét Về Chữ “Tâm” Trong Đạo Phật

03 Tháng Ba 201707:50(Xem: 11764)
Khái Quát Một Số Nét Về Chữ “Tâm” Trong Đạo Phật

Khái quát một số nét về chữ  “Tâm” trong đạo Phật

Quảng  Minh  LKH


Khái Quát Một Số Nét Về Chữ  “Tâm” Trong Đạo Phật


Lời  Nói Đầu:

Bài viết mang nặng tính tổng hợp, liệt kê, suy luận chủ quan, có khi phỏng định nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo.  Mong được các bậc cao minh bổ chính và chỉ giáo thêm.   Xin chân thành cảm tạ.

                                                                                   Quảng  Minh  LKH

 

 

          Khái quát một số nét về chữ  “Tâm” trong đạo Phật

“Tâm”  là một trong những  từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống thường nhật (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình… với biết bao nổi niềm vui buồn, thương ghét…) cũng như cũng rất  phổ thông, phổ dụng  trong đạo Phật . Lý dođạo Phật là đạo tu Tâm.  Nhưng “Tâm là gì  ? Tâm ở đâu ? Tu tâm là tu như thế nào ..lại là các điều cần được nắm vững.  Ngoài ra lại có khá nhiều từ ngữliên hệ rất mật thiết với chữ “Tâm” như các chữ Tánh, Thức, Ý, Ý Thức, Tình Cảm, Xúc Cảm, Tư Duy, Lo Nghĩ,  … Điều này khiến người học Phật khó tránh khỏi những hoang mang, mờ  mịt, ngờ vực  vì khó có thể phân định chuẩn xác được các phạm trù  về ý nghĩa của chữ “Tâm” trong đạo Phật.

Thông thường, có thể phân biệt tổng quát có hai thứ tâm: (1) “Tâm Vật Thể”  là trái tim thịt thuộc về bộ máy tuần hoàn trong cơ thể,  được gọi là “Nhục Đoàn Tâm” trong đạo Phật, và (2) “Tâm Tính Năng” là những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt, lo nghĩ.. có nơi  tâm thức.  Đạo Phật không  đề  cập nhiều đến Tâm Vật Thể , mà  đặt trọng tâm vào Tâm Tính Năng” với các phần đi từ cạn cợt, vọng huyễn, phiền não như những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt, lo nghĩ..dễ thấy biết  đến các phần sâu xa vi tế , chân thật, trong sáng, thanh tịnh khó  thấy biết (mà  phần sâu xa vi tế  nhất chính  là Phật Tánh, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, Tri Kiến Phật, Như Lai Tàng Bản Thể..) nơi Tâm Tính Năng này.

Hầu như toàn bộ kinh điển  đạo Phật (3 Thừa, 12 Bộ Kinh)  đều nhằm  nói  về  tâm. Ở  đây chỉ trích một vài đoạn kinh tiêu biểu trực tiếp nói về Tâm trong các kinh thường được biết đến nhiều nhất.

Kinh Pháp Cú (phẩm Song Yếu) xác quyết vai trò chủ yếu của Tâm trong việc tạo tác ra tội - phước : “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe”, và “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịmh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẽ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bóng theo hình “ .

Kinh Hoa Nghiêm khai thị về cội nguồn Tâm của ba đời mười phương chư  Phật “ Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thế thập phương Phật, Ưng quán pháp giới tánh, Nhứt thiết Duy Tâm tạo” ( Tạm dịch” Như ai muốn rõ biết, Ba đời mười phương Phật, Nên quán tánh pháp giới, Tất cả Duy Tâm tạo”).

Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật khai thị nơi Tâm của chúng sanh đều có sẵn đầy đủ Pháp Giới thân của chư Như Lai:

“Chư Phật Như Laipháp giới thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng phụ của Phật. Tâm tưởng niệm Phật, tâm quán tưởng Phật thì tâm ấy chính là Phật”.

 

Kinh Tâm Địa Quán cũng xác quyết vai trò căn nguồn, cội gốc chủ yếu của Tâm Tính Năng này trong tu hành giải thoát:

“Tam giới chi trung        Tạm dịch:              ( Ở trong ba cõi

Dĩ tâm vi chủ                                                   Lấy tâm làm chủ

Năng quán tâm giả                                         Người hay  quán tâm

Cứu cánh giải thoát                                        Rốt được giải thoát

Bất năng quán giả                                            Người không quán tâm

Cứu cánh trầm luân                                        Rốt rồi trầm luân

Chúng sinh chi tâm                                        Tâm nơi chúng sinh

Du như đại địa                                                            Ví như ruộng đất

Ngũ cốc ngũ quả                                             Các loài thực vật

Tùng đại địa sanh                                           Theo đất mà sanh

Như thị tâm pháp                                            Tâm pháp cũng thế

Sanh thế xuất thế                                            Sanh ra thế gian

Ngũ thú thiện ác                                             Năm đường thiện ác

Hữu Học Vô Học                                            Thanh Văn La Hán

Độc Giác Bồ Tát                                             Độc Giác Bồ Tát

Cập ư Như Lai                                                            Cả đến Như Lai

Dĩ thị nhân duyên                                           Bởi nhân duyên này

Tam giới duy tâm                                           Ba cõi chỉ (là) Tâm

Tâm danh vi địa..                                            Tên tâm gọi (là) đất…)

Duy Thức Học dựa trên Pháp Tướng đã phân định rõ vũ trụ vạn hữu được bao gồm trong 100 pháp (Đại Thừa Bách Pháp). 100 pháp này đều có liên hệ mật thiết ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp  đến chữ “Tâm”, trong đó Tâm Vật Chất thuộc về  Thân Căn ( chỉ là một trong 11 món của Sắc Pháp).

100 pháp được phối hợpliệt kê , chỉ kể tên ra theo 5 loại là:

  1. Tâm Pháp (Pháp Tối Thắng) , chính là “Bát Thức Tâm Vương”, có  thể  gọi nôm na là “Tám Chủ Thể Thấy Biết -  Phân Biệt - Nhận Thức và Lưu Giử NghiệpThức” (“Thấy Biết” là  nói gọn của “Thấy Nghe Hiểu Biết” = “Kiến Văn Giác Tri”).   

“Bát Thức Tâm Vương’ gồm có:

Nhãn thức (Thấy Biết, Phân Biệt Sắc Trần nơi Mắt)

Nhĩ thức (Thấy Biết, Phân Biệt Thanh Trần nơi Tai),

Tỷ thức (Thấy Biết,  Phân Biệt Hương Trần nơi Mũi),

Thiệt thức (Thấy Biết, Phân Biệt Vị Trần nơi Lưỡi),

Thân thức (Thấy Biết,  Phân Biệt Xúc Trần nơi Thân), 

Ý thức (còn gọi  là  Thức 6th, = Liễu Biệt Cảnh thức = Phân Biệt Sự thức = Phân Ly thức)  (=  Thấy Biết, Phân Biệt Pháp Trần nơi Ý Thức). Sự phân biệt Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) trội bật nhất là  ở nơi Ý Thức, vì Ý Thứccông năng phân biệt mạnh mẽ nhất.  Năm thức trước (Tiền Ngũ Thức = Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân ) chỉ  có công năng chính là tiếp thu trần cảnh, còn công năng phụ là phân biệt về  Tánh Cảnh của cảnh trần (sự phân biệt này xuất phát từ Ngũ Câu Ý Thức = phần Ý Thức chuyên biệt có nơi 5 căn Nhãn Nhĩ Tỹ Thiệt Thân).

Mạt Na thức (còn gọi là Thức 7th, = Ý  = Ý Căn, Căn của Ý Thức =  Tư Lương thức) = dòng tư  lương vi tế bất tận với thấy biết vướng chấp nặng về Năng - Sở, về Ngã - Ngã Sở Hữu, = Ngã – Pháp.

A Lại Da thức  (còn gọi là  Thức 8th = Tàng Thức = A Đà Na Thức = Dị Thục Thức = Tâm Sanh Diệt) =  kho chủng tử, tàng chứa tất cả thành quả của Thấy Biết , Nhận Thức thức  từ bảy Thức trước. Thành quả này được gọi là Nghiệp Thức, cấu chất của chủng tử).

Ba chữ thường được nhắc đến nhiều là  “Tâm”, “Ý”, và “Ý Thức” đến đây đã được Duy Thức Học minh định rõ: Tâm là A Lại Da thức = thức 8th, Ý là Mạt Na thức = thức 7th, và Ý thức = thức 6th. Điều này đã được xác quyết ở Luận Đại Thừa Khởi Tín.

  1. Tâm Sở Hữu Pháp (Tâm Vương Chi Sở Hữu Pháp = Các pháp từ  Tâm Vương khởi, tương ưng  với Tâm Vương và hệ  thuộc nơi Tâm Vương), gồm  51 pháp, có thể xem là 51 sản phẩm được tạo thành từ công năng hoạt động từ 8 thức Tâm Vương nêu trên. Tâm Sở  Hữu Pháp này chính là  những tình cảm của các loài hữu tình, trong đó  nổi bật nhất chính là  những tâm sở  phiền não, thường được nhắc đến là  “Thất Tình” = Hỷ, Nộ, Ai, Cụ, Ái Ố, Dục (mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn) và Lục Dục = những tình cảm phát sinh từ lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) khi tiếp thọ với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp).  Những tình cảm này chi phối mạnh mẽ vào đời sống thường nhật, có khi còn được tôn vinh, ngợi ca (như  tình yêu nam nữ ) nơi Tục Đế , nhưng qua lăng kính Duy Thức Học, đây chỉ là những phiền não, và quan trọng hơn chỉ là những Tâm Sở, sản phẩm của Tâm,  không phải  là Tâm, mà nhiều người thường tưởng lầm cho  rằng chúng chính là Tâm của họ.

 51 Tâm Sở pháp này gồm có:

5 món Biến Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư),

 5 món Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Tuệ),

11 món Thiện ( Tín, Tinh Tấn, Tàm, Quí, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại),

6 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến),

20 Tùy Phiền Não (Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu, Vô Tàm, Vô Quí, Bất Tín, Giải Đải, Phóng Dật, Hôn Trầm, Trạo Cử, Tán Lọan, Thất Niệm, Bất Chánh Tri),

và 4 món Bất Định (Hối, Miên, Tầm, Từ).

  1. Sắc Pháp (Pháp Sở Hiện Ảnh) gồm 11 món, gồm có  5 món về Căn  (Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân) và 6 món về Cảnh Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) được hình thành từ sự phối hợp của Tâm VươngTâm Sở.
  2. Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp ( Pháp Tam Vị Sai Biệt) gồm 24 món không có tương ưng với ba loại Tâm Vương, Tâm Sở, và Sắc Pháp nêu trên.  Đó là: Đắc, Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Dị Sanh Tánh, Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định,  Vô Tưởng Báo, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh, Trụ, Lão, Vô Thường, Lưu Chuyển, Định Dị, Tương Ưng, Thế Tốc, Thứ Đệ, Thời, Phương, Số, Hòa Hợp Tánh, và Bất Hòa Hợp Tánh.
  3. Vô Vi Pháp ( Pháp Tứ Sở Hiển Hiện) là các pháp vô tướng, vô tác rất vi tế nên  không thuộc vào bốn loại  pháp vừa nêu trên. nhưng lúc nào cũng có hiện diện, không thiếu vắng nơi bốn pháp này.  Vô Vi pháp  gồm có 6 món  là: Hư Không, Trạch Diệt, Phi Trạch Diệt, Bất Động Diệt, Tưởng Thọ Diệt, và Chơn Như.

Qua Duy Thức Học,  có thể thấy A Lại Da thức chính là  cội nguồn chủ  yếu của  tâm thức phàm phu nơi chúng ta. Khi A Lại Da thức được tinh sạch, không còn bị  vướng chấp phiền não che phủ , nó  sẽ  trở  thành Bạch Tịnh thức (Bản Thể Như Lai Tàng thanh tịnh). Đó chính là Pháp Thân Như Lai, Giác Thể vô thủy - vô chung, vô tại - vô bất tại, Đệ Nhất Nghĩa Đế, cõi Phật Vô Động, tự đầy đủ thanh lương bất biến, soi chiếu khắp pháp giới hằng nhiên tự  tại. Thông thường,  chúng ta chỉ biết  sống với  “Tâm Vật Thể” và  với các Sắc pháp, chỉ  biết nhiều và  sống thường xuyên cùng với  các phần thô phù, cạn cợt  của “Tâm Tính Năng” như  với 6 món Tâm Vương đầu tiên (Tiền Lục Thức: Nhãn Thức , Nhĩ Thức, Tỹ Thức,  Thiệt Thức, Thân ThứcÝ Thức) cùng các món Căn Bản Phiền Não,  và  các món Tùy Phiền Não, ..Do vậy chúng ta quan tâm nhiều đến các món Sắc Pháp và các món Tâm Sở Phiền Não, quan tâm ít hơn đến các món Tâm Sở Thiện và các món Tâm Sở khác, và hầu như rất xa lạ với các pháp Vô Vi.  Điều này đưa đến sự hình thành, phát triển tự nhiên, và  tồn tại lâu dài của vô  minh phiền não, chủng tử hữu lậu, chìa khóa phát khởi nghiệp thức dẫn đưa vào sáu đường sinh tử luân lưu, bất tận trong ba cõi.

 

Kinh Pháp Cú ( phẩm “Tâm”) có câu “Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, xao động, không dễ nắm bắt. Chỉ những người nào đã điểu phục được tâm mình mới được an vui”. Do đây, tâm ý phàm phu thường được ví như khỉ, như ngựa (“Tâm viên, ý mã”).

Ngài Thần Quang (về sau là Nhị Tổ Huệ Khả) thưa với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma :”Tâm con không an xin Thầy dạy con pháp an tâm”. Sơ Tổ nói: Hãy đem tâm của ông ra đây, ta sẽ an cho”. Thần Quang đáp  “Con tìm tâm mà chẳng thấy”. Sơ Tổ bảo  “Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi”. Từ  đây, ngài Thần Quang đã  được pháp an tâm. ( = Cái tâm mà  Ngài ban đầu tưởng là  không an chỉ là những tâm sở thô phù, là  phiền não, là pháp sanh diệt, chợt có chợt mất, chợt đến chợt đi  theo các duyên trần. Khi tâm ta còn phan duyên và  bị vướng mắc vào phiền não,  tâm chỉ thấy hiện raphiền não nên ta dễ có ý cho rằng phiền não chính là bản tâm ta. Chỉ cần một lời dạy đơn giản là “hãy đem tâm ra đây” khiến ngài Thần Quang xoay lại quán chiếu  nơi bản tâm  sẽ thấy phiền não huyễn hóa tự nhiên biến mất, liền được trở về với thanh tịnh bản nhiên tự  có nên đó chính là pháp an tâm vậy).

 

Luận Đại Thừa Khởi Tín xác minh sự khởi phát của ba thức cơ bản của Bát Thức Tâm Vương  là  A Lại Da Thức, Mạt Na Thức, và  Ý Thức  như sau:

  1. Ban đầu chỉ có bản thể  Giác Tánh thanh tịnh , viên mãn  (Đây chính là Bản Giác).
  2. Do tác động từ cảnh trần, Bản Giác bị chao động (Đây chính là Vô Minh Nghiệp Tướng, Tế 1st của Tam Tế) nên có  xuất hiện A Lại Da thức  (đây là  giai đoạn khởi phát và xuất hiện Thức 8th).
  3. Từ đó tiếp tục sinh ra có Năng Kiến Tướng (còn gọi là Chuyển Tướng, tức là Kiến Phần của A Lại Da thức, Tế 2nd của Tam Tế)
  4. Rồi có thêm Cảnh Giới Tướng (còn gọi  là Hiện Tướng, tức là Tướng Phần của A Lại Da thức, Tế 3rd của Tam Tế).Từ đây đã có sự xuất hiện của Mạt Na thức (đây là  giai đoạn khởi phát và xuất hiện Thức 7th) với chấp mắc về Năng - Sở,  Ngã - Pháp (Ngã Sở Hữu), Có -Không. 

(Ba tướng Vô Minh Nghiệp, Kiến Phần, và Tướng Phần này được gọi chung là Tam Tế trong Đại Thừa Khởi Tín Luận. Tế 1st minh định sự hình thành A Lại Da thức, hai tế sau 2nd và  3rd, minh định sự hình thành Mạt Na thức).

  1.  Mạt Na thức xuất hiện sẽ tiếp tục phát triển ra Lục Thô bao gồm Thô 1st =Trí Tướng (có thêm phân biệt tốt-xấu, thương-ghét) , Thô 2nd =Tương Tục Tướng (vọng niệm tiếp nối liền lạc theo nhau không dứt), Thô 3rd = Chấp Thủ Tướng (khiến tâm trở nên chấp luyến, thủ đắc sự vật), Thô 4th  = Kế Danh Tự Tướng (và khiến tâm giả đặt ra danh tự gọi tên sự vật), Thô 5th = Khởi Nghiệp Tướng (rồi tâm gây tạo nghiệp lành dữ) và Thô 6th = Nghiệp Hệ Khổ Tướng (tâm phải thọ chịu quả khổ). Hai Thô đầu của Lục Thô còn thuộc về Mạt Na thức, còn bốn Thô sau  của Lục Thô chính là Tướng và Dụng của Ý Thức (khởi phát và xuất hiện Thức 6th). Như thế, Tam Tế Lục Thô chính là quá trình chuyển biến từ  bản thể Như Lai Tàng thanh tịnh qua các thức A Lại Da, Mạt NaÝ thức cấu nhiễm, cơ sở cho các tác nhân gây tạo nghiệp khổ luân hồi.

 

Vậy bản thể của tâm là Giác Tánh thanh tịnh luôn có sẵn, chỉ vì Tâm bị chao động trước cảnh trần mà khiến có Bất Giác. Bất Giác chính là sự Động Tâm, cũng  chính là Vô Minh vi tế nhất,  sâu xa nhất so với các Vô Minh thô phù bên ngoài (như các Tâm Sở phiền não Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến)…Các tông phái đạo Phật đều có  cứu cánh nhắm đến chổ loại trừ, buông bỏ Vô Minh vi tế  về  sự  động tâm này. Như  Tịnh Độ  tông với pháp môn “Niệm Phật nhất tâm bất loạn”, Mật Tông với pháp môn Tam Mật Tương Ưng, Thiền Tông với pháp môn Chỉ Quán…

Mỗi động thái của Bản Giác đưa đến sinh khởi của một tâm với  tướng trạng khác nhau và vì vậy tên gọi (danh xưng) cũng khác nhau. Từ chổ Tâm bị động,  vọng niệm được phát khởi, mỗi vọng niệm phát khởi lại là một dạng tâm sở, mỗi tâm sở lại có thể tương ưng với một dạng loại phiền não,  nên thực tế không phải chỉ có 51 tâm sở như Duy Thức Học đã tổng quát hóa, tóm gọn lại , mà có vô lượng tâm sở, vô lượng phiền não rồi. Điều an ủi là dù có vô lượng phiền não, nhưng chúng sanh cũng có vô lượng Bồ Tát sẵn sàng cứu giúp vượt qua chúng. Vô lượng phiền não thường được tượng trưng với con số 84,000 trong đạo Phật như nếu có 84,000 phiền não thì cũng có 84,000 vị Bồ Tát hoặc có 84,000 pháp môn giải thoát…Các Bồ Tát này quí hóa thay lại có sẵn đủ , ở ngay nơi cội nguồn tâm thức của mỗi chúng sanh nên chúng sanh chỉ cần “Hồi Đầu”, thì tức khắc “Thị Ngạn” ngay. Mỗi một niệm Giác là một Bồ Tát,   từ nơi có “Hữu Tình Giác’ mà  khiến có nên “Giác Hữu Tình”. Do vậy Lục Tổ đã nói “Không ngại niệm khởi chỉ e giác chậm”. Đây cũng là ý nghĩa của phẩm “Tùng Địa Dẫn Xuất” trong kinh Pháp Hoa (có vô số Bồ Tát từ đất tâm vọt lên để hộ trì kinh, không cần đến các Bồ Tát ở các phương khác).

 

Kinh Duy Ma Cật phân biệt về các tâm với tên gọi khác nhau có được trên tiến trình  tu tập, dựng xây cõi Tịnh Độ, kể tên sơ lược một số tên gọi : 1stTrực Tâm = tâm không cong vạy, thẳng hướng về bản thể Chơn Như, 2ndThâm Tâm =  tâm tinh tấn đi sâu vào Chơn Như, 3rdBồ Đề Tâm = tâm thể phát sáng, cảm nhận được chất liệu trí tuệ - an lạc nơi Chơn Như, 4thHồi Hướng Tâm = tâm dụng từ Chơn Tâm hướng đến lợi ích cho chúng sanh…để dần dà có Thanh Tịnh Tâm rồi có cõi Tịnh Độ (Phật quốc). Ở đây, kinh Duy Ma Cật xác minh tu tâm không dừng lại ở phương tiện  phá dẹp, buông bỏ phiền não nơi các Thức vì  đây chỉ giống như  hớt bọt trên mặt biển nổi sóng mà không biết đến nguyên nhân sâu xa khiến phát sinh bọt biển chính là  do nước biển yên lành đã  bị chao động theo những cơn gió  từ  các duyên trần cảnh từ  bên ngoài. Kinh đã nhấn mạnh đến nơi cứu cánh,  nổ lực hướng  thẳng đến Chơn Tâm bản tánh, tinh tấn cho đến khi thành Phật.

Một vị tăng hỏi thiền sư Thiên Nhan: “Thế nào là Lý Bản Thường ?”. Thiền sư Thiên Nhan đáp : “Động”.. Vị tăng lại hỏi “Khi động thì sao ?”. Ngài đáp : “Chẳng phải Lý Bản Thường”. Ở đây, câu trả lời của thiền sư Thiên Nhan không nhằm giải đáp cho chính câu hỏi (phát khởi từ nguồn thức 6th,thức 7th ,    thức 8th của học tăng)  mà đã rốt ráo hơn, cụ thể hơn, từ bi thiết thực hơn nhổ đinh, tháo chốt  thẳng vào ngay nơi động thái của Bản Giác nơi người nêu ra câu hỏi vậy. Thiền Sư sau đó đã khai thị tiếp về việc “Nhận” và “Chẳng Nhận” (động thái vi tế hơn ở nguồn tâm của học tăng): “Nhận tức chưa thoát khỏi căn trần, còn chẳng nhận thì còn hằng chìm trong sanh tử” .

Kinh Duy Ma Cật, phẩm 12 “Kiến A Súc Phật”  khai thị  về  cõi nước Diệu Hỹ  cũng nhằm vào ý  nghĩa này: khi tâm thức không bị chao động trước cảnh trần, quán chiếu thấu được “Thực Tướng” ngay nơi tự thân sẵn đủ thì  chính lúc đó là quốc độ Diệu Hỷ rồi. Tâm “Hỷ Lạc” ở đây có ý nghĩa thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc nơi Tục Đế thế gian (tâm vui thích vì được thành toại tham dục với cảnh trần  bên ngoài), cũng thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc của thiền cảnh cõi trời Sắc Giới (Ly Sanh Hỷ Lạc = Xa rời ngũ dục thế gian mà tâm được  vui thích, Định Sanh Hỷ Lạc = Tâm không còn chao động với ngũ dục thế gian mà được vui thích.), nên được gọi là Diệu Hỷ (cái vui mầu nhiệm bất khả tư nghì mà ai cũng sẵn có đầy đủ nhưng lại thường hay bị bỏ quên nên không thể biết về nó và không thể sống với nó).

Cuộc vấn đáp giữa ngàiTriệu Châu (người hỏi) và thầy mình là Tổ Nam Tuyền (người đáp) minh định tâm Vô Động (gọi là Tâm Bình Thường ở đây)  với ý nghĩa Tâm Bình Thường không phải là tâm hằng ngày thường khiến ta bận bịu,  phiền não vướng chấp theo duyên trần, nghĩ ngợi lăng xăng phải -quấy, tốt xấu, khen chê, thương- ghét) mà Tâm Bình Thường chính là Đạo,  là tâm ở nơi cội nguồn thanh tịnh, nơi đó không còn có vọng động, khiến tâm xa lìa các ý niệm về tiến – lùi, nghĩ ngợi, nhận biết theo duyên trần của Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da thức.  

  • Thế nào là đạo?
  • Tâm bình thường là đạo.
  • Lại có thể nhằm tiến đến chăng ?
  • Nghĩ nhằm tiến đến là sai rồi
  • Vậy khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo ?
  • Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy?

Ngay câu nói này, thiền sư Triệu Châu được ngộ lý.

Như trên đã nói, đạo Phật chính là đạo về Tâm.  Nhưng nếu cho rằng đạo Phật là đạo Duy Tâm thì cần khéo  hiểu ý nghĩa của chữ Tâm này, chữ Tâm với ý nghĩa trọn vẹn, bao trùm đầy đủ các pháp giới  từ thô đến tế,  từ cạn cợt đến vào sâu suối nguồn ẩn kín, chữ Tâm vượt qua khỏi các  phạm trù “Duy” và “Chẳng Duy” với nhậm vận diệu dụng  “Bất Biến mà Tùy Duyên”, và tuy là “Tùy Duyên nhưng lại Bất Biến” .

Còn nếu cho rằng đạo Phật là đạo Vô Thần, thì cần khéo  hiểu ý nghĩa về bản thểdiệu dụng của nguồn tâm thể bản hữu. Chính ngay từ ngữ “Vô Thần” đã bị vướng chấp vào hai ý niệm: 1stý niệm về Vô - Hữu (Có - Không), 2ndý niệm về “ Là (Thần) - Chẳng Là (Thần)”.  Hai ý niệm này còn thuộc phạm trù của các Thức (Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da thức),  chưa chạm vào đến nơi cội nguồn bản thể thanh tịnh của A Lại Da thứcBản Giác hằng nhiên thanh tịnh mà chiếu soi cùng khắp, vượt qua tất cả ý niệm về không gianthời gian, về Có –Không, về Là-Chẳng Là . Đó là diệu dụng bất khả tư nghì của cội nguồn Chơn Tâm Thường Trú “thanh tịnh bản nhiên, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, chu biến pháp giới” (kinh Thủ Lăng Nghiêm). Cội nguồn này là nơi xuất sanh và cũng là nơi trở về (sanh hay diệt tùy theo các nhân duyên tụ tán) của vô lượng sanh thể, sanh khí, sanh tướng của chúng sanh , bao gồm tất cả dạng loài chúng sanh trong ba cõi ( Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới), trong sáu đường (Trời, Người, thần A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Địa Ngục), và cả mười pháp giới (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và sáu đường nêu trên).

Như thế, gán ép cho “Tâm” nói riêng và cho đạo Phật nói chung bất kỳ một danh hiệu nào, một nhãn hiệu nào… đều không chuẩn xácxứng hợp hoàn toàn. Bởi vì Tâm nơi cứu cánh chính là nguồn  sống thiên sai vạn biệt của tất  cả chúng sinh mà ở tận cùng nguồn sống ấy lại là giác thể thanh tịnh bản hữu chung cùng, bản vị bình đẳng nơi mỗi sinh linh.  Đây cũng chính là điểm tinh yếu vô cùng đặc sắc và độc đáo của đạo Phật Đại Từ - Đại Bi - Đại Hỷ - Đại Xả vậy.

                                                                                          Quảng Minh LKH

                                                                                    Plano_ February 21, 2017

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9278)
Khổ đau đến giống như những ngày mưa gió bão bùng để nhắc nhở chúng ta biết sống và trân quý những ngày nắng đẹp, gió hiền.
(Xem: 11022)
Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình; tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào chính mình. Điều này có nghĩa rằng hạnh phúc hay đau khổ...
(Xem: 16241)
Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích gì cả mà chỉ khiến ta phải mang khẩu nghiệp.
(Xem: 11774)
Bố thícúng dường là một trong những pháp tu quan trọng của hàng Phật tử. Tuy nhiên...
(Xem: 9580)
Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ.
(Xem: 9710)
Sau khi đã quán chiếu về khổ như ta đã làm, ta phát tâm mong ước được thoát khổ vĩnh viễn.
(Xem: 14127)
Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ ...
(Xem: 9702)
Chúng ta sẽ quán chiếu xem làm thế nào tâm ta lại là nguồn gốc của hạnh phúc, đau khổ hay bất mãn
(Xem: 11055)
Những kẻ khủng bố mang một nhãn quan quá nông cạn và đó là một trong những lý do dẫn đến hàng loạt các vụ đánh bom tự sát.
(Xem: 19580)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Sau những đợt tấn công khủng bố ta không thể cứ trông chờ vào sự giúp đỡ từ Thượng Đế hay từ Chính quyền"
(Xem: 8735)
Có những giọt mưa rơi trên công viên. Chiều. Vắng người. Mưa rơi, rửa sạch những tàn lá cao. Mưa rơi, ướt những bãi cỏ xanh.
(Xem: 8070)
Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ
(Xem: 9183)
Những người mong muốn tìm hiểu và bước vào Con Đường Phật giáo thường vô cùng hoang mang trước tình trạng có quá nhiều học phái và chi phái khác nhau
(Xem: 9135)
Giáo lý nhà Phật cho chúng ta biết rằng cái tâm vốn thanh tịnh trong sáng, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ bên ngoài, nghĩa là...
(Xem: 9175)
Người Phật tử khi bước vào đạo, thọ trì ba pháp quy y và năm điều giới cấm, trong đó có việc lập hạnh không nói dối.
(Xem: 8010)
Tu tập tâm từvấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi thì...
(Xem: 8488)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để...
(Xem: 10661)
Phiền não của chúng sanh thì vô lượng vô biên nhưng tham sân sicăn bản. Tham sân si còn được gọi là ba độc, giết chết an lạchạnh phúc của con người.
(Xem: 14667)
Bài hát “Tôi yêu màu lam” đã làm cho tôi yêu thích màu lam - màu của tổ chức GĐPT từ thuở nào mà tôi không còn nhớ rõ lắm...
(Xem: 9182)
Phát triển tâm Bồ đề là cốt tủy của giáo pháp Phật giáo và là đường tu chính yếu.
(Xem: 12278)
Phần đông chúng ta đi qua cuộc sống bám víu rất chặt vào những gì người khác nghĩ về chúng ta.
(Xem: 13054)
Để tồn tại trong thế giới này tất cả mọi người đều định hình sự hiện hữu của mình với nhiều phương thức khác nhau thậm chí sống quên mình vì nó.
(Xem: 10071)
Tin sâu nhân quả và biết cách làm chủ bản thân từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động trong từng phút giây, bởi vì ...
(Xem: 9606)
Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõnhân quả.
(Xem: 11793)
Hãy xin mẹ đi tu… nếu chúng ta có đủ can đảmniềm tin sâu sắc vào giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 10628)
Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó mỉm cười với bạn...
(Xem: 8301)
Dhamma là một cái gì đó có thể làm giảm bớt các vấn đề khúc mắc và các khó khăn cho nhân loại, và dần dần cũng có thể làm cho các thứ ấy biến mất được.
(Xem: 9893)
Một hòn sỏi, một hòn đá cuội lăn lóc vô tri như thế hàng tỉ năm, mà nếu khôngphương tiện để chuyển hóa thì nó vẫn là đá sỏi không có giá trị...
(Xem: 9972)
Không có gì quý hơn khi mọi người sống thương yêuhiểu biết, bao dungđộ lượng, từ bitha thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
(Xem: 8592)
Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống chung của muôn loài và thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp
(Xem: 10219)
Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù.
(Xem: 18452)
Người biết gieo trồng phước đức thì sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tạimai sau. Kẻ chỉ biết cho riêng mình thì sẽ trở thành người ích kỷ, làm tổn hại người vật.
(Xem: 8586)
Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡsửa chữa, cũng có những sai lầm ...
(Xem: 13817)
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏitu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết.
(Xem: 9197)
Người tu phước thì không có gì để nói vì họ chỉ nhắm tới mặt phước báu. Khi phước báu đầy đủ, họ dừng trụ ở đó là chuyện đương nhiên.
(Xem: 9911)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm.
(Xem: 10797)
Trong cuộc sống thường nhật, sự yên lặng là một thứ gì đó không được mấy ai quan tâm đến.
(Xem: 8201)
Nhân quả rất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng cốtăng trưởng mạnh mẽ.
(Xem: 9966)
Nếu chịu khó nhìn khắp thế giới chung quanh và để ý nhận xét, chúng ta sẽ trông thấy một sự thật hiển nhiênđâu đâu cũng có sự hiện diệntác động của đồng tiền.
(Xem: 14207)
Nền tảng trí tuệ của đạo Phật dựa trên những kho tàng giáo lý của Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo,…
(Xem: 8673)
Sau mỗi thời tụng kinh, người đệ tử Phật thường nguyện “Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển”.
(Xem: 8657)
Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình.
(Xem: 8407)
Trong lời tựa của sách YẾT MA YẾU CHỈ, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã viết: “Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì luật Tứ Phần, thì ...
(Xem: 8970)
Vấn đề tín ngưỡng tôn giáo không còn gì để nói, vì đó là hiện tượng của cuộc sống như bao cuộc sống trong xã hội con người, có cả hai mặt: tiêu cựctích cực.
(Xem: 8762)
Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó.
(Xem: 11457)
Đạo Phật là đạo của từ bi luôn mang yêu thương đến với muôn loài và sẵn sàng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, hầu giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê.
(Xem: 8827)
Cái gì đã đưa đẩy con người vào đường cùng không chút lương tâm để rồi phải sống trên xương máu và sự đau khổ của nhiều người.
(Xem: 8146)
Trong thời Phật còn tại thế, có một vị quan tổng trấn đã từng làm quan gần hai chục năm; nhờ nhân duyên tốt nên ông từ bỏ quyền lực, danh vọng, xuất gia làm Tỳ kheo.
(Xem: 9569)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
(Xem: 10285)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant