Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Tùy Phật Học

04 Tháng Năm 201707:31(Xem: 9234)
Thường Tùy Phật Học
Thường Tùy Phật Học

Hoằng Nhất Đại Sư
Thích Nguyên Hùng dịch


thuong tuy phat hoc
Quý chú, quý cô xuất gia trẻ thân mến!

Quý vị biết không, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hạnh Nguyện, có nêu lên 10 đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, mà điều nguyện thứ tám là nguyện “Thường tùy Phật học,” tức là nguyện suốt đời học hỏitu tập theo Phật. Nhưng nếu y theo những điều thần thông diệu dụng ghi chép trong kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định hạng phàm phu xuất gia chúng ta không ai có thể học tập theo cho được. Tôi nghĩ, những điều ghi chép trong kinh đó chẳng phải để cho chúng ta học tập theo, hay ít nhất là chẳng phải cho những hạng người như tôi! Tuy nhiên, tôi biết chắc một điều là trong kinh và luật, có ghi lại rất nhiều sự việc mà đức Phật đã làm, và những điều đó đều là mô phạm cho chúng ta noi theo, bất luận là hạng người nào, cũng đều có thể học tập và làm theo được. Hôm nay tôi xin chia sẻ với quý chú quý cô vài điều mà bản thân tôi đã vận dụng được trong cuộc sống tu tập của mình, và tôi nghĩ, quý chú quý cô, cũng có thể “thường tùy Phật học” được.

1. Đức Phật tự tay quét sân. Căn bản thuyết nhất thiết tỳ nại da tạp sự, ghi lại một câu chuyện rằng: Hôm nọ, đức Phật ở tại rừng Thệ đa. Ngài thấy khuôn viên khu rừng không được sạch sẽ, liền tự đi tìm chổi quét dọn. Lúc ấy, các đại đệ tử Thanh văn như Xá lợi phất, Mục kiền liên, Đại ca diếp, A nan v.v… thấy sự việc như vậy liền cùng nhau quét dọn khuôn viên rừng. Quét xong, đức Phật cùng với các đệ tử vào giảng đường, theo thứ lớp ngồi ngay thẳng, đức Phật nói: “Này quý thầy Tỳ kheo! Quý thầy biết không? Quét dọn ngôi già lam có năm thứ công đức rất là thù thắng. Một là tự tâm mình sẽ được thanh tịnh. Hai là khiến cho tâm người khác cũng được thanh tịnh. Ba là chư thiên hoan hỷ. Bốn là tạo được chánh nghiệp. Năm là sau khi mạng chung được sanh lên thiên giới”.

2. Đức Phật cùng với Ngài A nan khiêng đệ tử về và tắm rửa cho vị ấy. Luật Ngũ phần, ghi lại duyên khởi đức Phật chế giới cấm uống rượu, như sau: Tỳ kheo Bà già đà do hàng long mà được rượu, uống say bí tỷ, y bát vất mỗi thứ mỗi đường. Đức PhậtA nan đi ngang qua trông thấy, Ngài liền cùng thầy A nan khiêng Bà già đà đến cái giếng gần đó, rồi tự tay múc nước tắm rửa cho y tỉnh rượu. Nhân đó đức Phật chế giới cấm uống rượu.

3. Đức Phật sửa lại phòng xá. Thập tụng luật, ghi rằng: Đức Phật ở tại nước A la tỳ (Aḷāvī). Một hôm, Ngài thấy cánh cửa chùa bị hư, liền tự tay tháo ra sửa chữa trở lại.

4. Đức Phật chăm sóc bệnh nhân. Luật tứ phần có ghi lại câu chuyện: Có thầy Tỳ kheo bệnh nặng, không thể tự lo vệ sinh cho mình được, đức Thế tôn liền đỡ vị ấy dậy, lấy khăn lau thân thể vốn đã bị dính nhiều đồ bất tịnh cho sạch sẽ. Rồi đức Phật thay y áo bệnh nhân, giặt giũ, quét dọn lại phòng, đem cỏ lót nằm và ngồi thiền hư nát vứt bỏ, thay vào cỏ mới, rải tro lên nền nhà để khử trùng… Xong đâu vào đó, đức Phật đỡ bệnh nhân nằm lại trên giường, lấy y mới đắp lại, rồi ngồi trò chuyện với bệnh nhân cho đến khi các Tỳ kheo khác đi khất thực trở về.

Trong Tây vực ký ghi chép rằng: Phía đông bắc tịnh xá Kỳ hoàn có một ngôi tháp, đó là nơi đức Như lai tắm rửa và chăm sóc cho thầy Tỳ kheo bị bệnh.

Còn nữa, hồi Phật tại thế, có một thầy Tỳ kheo bị bệnh, ôm nỗi khổ đau, thui thủi một mình. Đức Phật hỏi: “Tại sao thầy kêu khổ? Tại sao thầy ở một mình?” Vị ấy đáp: “Bạch đức Thế Tôn, tính tình con thường hay làm biếng, lại chẳng khi nào giúp đỡ và chăm sóc người bệnh nào, cho nên khi con bệnh chẳng ai chăm nom.” Đức Phật ân cần nói với vị ấy: “Thiện nam tử, để Như lai chăm sóc cho thầy!”

5. Đức Phật may y cho đệ tử. Kinh trung a hàm ghi rằng: Đức Phật may cho ngài A na luật ba chiếc y. Các thầy tỳ kheo thấy vậy liền cùng nhau người cắt, người may, trong chốc lát thành y.

6. Đức Phật xâu kim cho thầy tỳ kheo lớn tuổi. Việc này có rất nhiều người biết. Nhưng tôi thì quên mất không nhớ nó nằm trong kinh luật nào, nên nay không thể kể nguyên văn câu chuyện, mà chỉ kể đại khái như vầy: Hồi Phật còn tại thế, có một tỳ kheo lớn tuổi vá y, nhưng vì mắt thầy đã nhoà, nên xâu mãi mà không thể nào đưa chỉ vào lỗ kim được, liền buột miệng thở dài: “Có ai giúp tôi xâu kim với!” Đức Phật nghe thấy, liền đứng dậy nói: “Để tôi giúp cho thầy!”

7. Đức Phật xin chúng tăng cử tội. Đó là sự việc diễn ra sau khi đức Phật cùng với các đệ tử an cư kiết hạ xong, tiến hành lễ tự tứ. Kinh tăng nhất a hàm, ghi: Đức Phật ngồi trên toà cỏ (tức là ngồi dưới đất, thay vì bình thường đức Phật ngồi trên toà đã soạn sẵn cao hơn chỗ ngồi của đại chúng để thuyết pháp), và thưa với đại chúng rằng: “Kính bạch đại chúng! Không biết tôi có gây lỗi lầm với người nào không? Thân, khẩu, ý của tôi có phạm không? Xin đại chúng chỉ cho!” Đức Phật nói như vậy ba lần.

Linh Chi luật sư nói rằng: Như Lai cũng tự tứ, là để thể hiện pháp bình đẳng, làm mô phạm cho đời sau, khiến cho đại chúng tỉnh ngộ, diệt trừ tâm ngã mạn.

Quý Tăng Ni sinh thân mến! Trên đây là bảy việc mà đức Phật đã từng làm, và tất cả chúng ta đều có thể noi theo, mà theo tôi nghĩ, đó là ý nghĩa của “thường tùy Phật học.” Dĩ nhiên, ý nghĩa vi diệu của câu kinh vốn là đại nguyện của đức Bồ tát Phổ Hiền, thì đâu phải chỉ thô thiển như thế! Nhưng nếu những việc thường tình như vậy mà đức Thế Tôn không làm, thì Ngài sao có thể thành Phật được? Vì vậy tôi mong mỏi quý vị Tăng Ni sinh hãy nỗ lực mà học theo để nhổ tận gốc ỷ lại, vốn là căn bệnh thời đại của người xuất gia trẻ, diệt trừ tâm kiêu mạn, tăng trưởng tâm từ bi, vun bồi phước nghiệp, mau chứng quả bồ đề. Đó là tâm nguyện mà tôi hy vọng quý chú quý cô cố gắng thực hành. Mong thay!


Hoằng Nhất Đại SưThích Nguyên Hùng dịch

Theo TTM

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17848)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25127)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18966)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18628)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant