Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật của ngoại

30 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13498)
Phật của ngoại

blank

Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm, chẳng những không "môi son má thắm" mà nét mắt nét môi cũng đã bị mờ nhòa. Phật chỉ đơn điệu với chiếc áo màu xanh ngọc cũ kỹ, tay ôm chiếc bình bát màu đen đất bùn, trông chân chất và rất đỗi… quê mùa!

Ấy là tôi nghĩ vậy, chứ trong tâm ngoại, ông Phật bé tẹo đó là nhất. Ngoại thờ Phật ở gian giữa. Phật nhỏ nên chiếc tủ thờ cũng nhỏ. Ngược lại, bộ chuông mõ lại to kềnh và cũng không kém phần cũ kỹ. Thuở nhỏ, tôi hay giật mình thức giấc vì tiếng niệm Phật của ngoại vào lúc giữa khuya. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật… Cứ đều đều như thế, ngoại không hề thấy chán. Và, cũng với câu niệm Phật ấy, tôi đã được ru êm vào giấc ngủ an lành không mộng mị.

Mãi sau này tôi mới biết pho tượng đó không phải là "A Di Đà Phật" như ngoại thường niệm, mà là Đức Dược Sư, thuộc dòng tượng gốm Biên Hòa - chân chất, mộc mạc như thể tượng mục đồng; nghe đâu một vị sư ở trong Nam ra hành đạo đã tặng cho ngoại. Ngoại trân quý lắm. Nhiều người thấy ngoại thờ pho tượng chẳng rõ mắt môi, nên không ít lời nói ra nói vào, có người còn đề nghị biếu cho ngoại pho tượng Phật khác, nhưng ngoại chỉ mỉm cười, bảo pho tượng đó có bề ngoài giống… ngoại!

Mà gần như thế thật, vì ngoại cũng đâu có cao sang gì. Thuở nhỏ ngoại đi chăn bò thuê, lớn lên có được mảnh vườn, mảnh ruộng, lập gia đình, nuôi đến 13 người con. Mẹ tôi là con thứ ba, không được may mắn như dì cả và cậu thứ; mẹ chỉ được học kiểu bình dân học vụ, vừa biết đọc, biết viết. Bù lại, mẹ thông minh nhanh nhạy, nên cũng tinh tế trong cách làm ăn, ứng xử.

Lúc nhỏ, khi ba mẹ còn ở cạnh nhà ngoại, tôi thường chạy qua chạy về, ăn ngủ ở nhà ngoại còn nhiều hơn ở nhà mình. Ngóc ngách nào trong nhà ngoại tôi cũng rành và đều cảm thấy thân thương, quen thuộc. Thân thương nhất có lẽ là pho tượng Phật. Tôi thấy Phật của ngoại sao mà gần gũi, không quá nghiêm trang như pho tượng Phật sứ ở nhà bác Chín Chuyên, mắt môi đường nét tất thảy đều sắc sảo.

Bác Chín Chuyên ở cạnh nhà ngoại, giàu có từ thuở xa xưa. Trong nhà bác, cái gì cũng sang trọng, kể cả bộ bàn ghế uống trà đặt ở chái hiên. Bác không phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Hàng ngày, bác chỉ lo chăm sóc vườn hoa, cây cảnh. Bác ăn chay, niệm Phật và rất nghiêm giáo, thế nhưng không hiểu sao hai người con gái của bác đều lấy chồng khác đạo và bỏ hẳn việc ăn chay, lễ Phật.

Trong xóm, hầu như bác chỉ kết thân với ngoại, thỉnh thoảng qua lại uống trà, đàm đạo. Bác cũng là người duy nhất trong xóm xuýt xoa khen pho tượng Phật của ngoại là đẹp và… hiếm. Bác còn phát tâm cúng hoa cho "Phật của ngoại" mỗi tháng hai lần vào ngày rằm, mùng một. Nhờ vậy mà ngoại không phải đi chợ mua hoa - còn trái thì hầu như có sẵn trong vườn - và tôi cũng được qua lại nhà bác, mỗi tháng hai lần đều đặn ôm về một bó hoa tươi thắm trước những cặp mắt ngưỡng mộ của những đứa bạn cùng trang lứa - những tụi khỉ (cùng với tôi nữa) đã không ít lần vạch rào, lẻn vào vườn nhà bác hái trộm trái cây…

***

Hai mươi năm… Một quãng thời gian quá dài, tôi trở về thăm ngoại. Cuộc sống thành phố hầu như đã biến tôi thành người khác: sang trọng, kiểu cách và chuộng cái vẻ bề ngoài hơn. (Ấy vậy cho nên tối hôm đó tôi đã đề nghị với ngoại một điều không nên chút nào!).

Ngoại giờ đây đã già, rất già; mái tóc bạc phơ và bước chân run run, chiếc lưng khòm như tựa hẳn vào cây gậy trúc vàng. Điều tôi lấy làm ngạc nhiên là căn nhà của ngoại vẫn vậy: mái tranh, vách ván và gian giữa vẫn là pho tượng Phật bé xíu cùng với cái tủ thờ cũ kỹ; bộ chuông mõ vẫn còn đó, ngoại vẫn ngày hai thời tụng kinh, niệm Phật. Trong gian thờ ấy, dường như thời gian đang ngưng đọng lại. Thắp nén hương lên bàn Phật mà lòng tôi không khỏi bồi hồi, pha lẫn chút ngậm ngùi, tiếc nuối. Tôi bỗng thấy mình trẻ lại, như cái thuở lên mười đêm đêm nghe tiếng niệm Phật lầm rầm của ngoại, và mỗi tháng hai lần chạy qua nhà bác Chín Chuyên hái hoa đem về cúng Phật. Cái thuở ấy, thanh bình làm sao…

Bác Chín Chuyên đã mất cách đây mười năm. Con gái bác dọn về đó ở, và việc đầu tiên cô ấy làm là hạ pho tượng Phật sứ xuống cất đi, rồi đặt khung ảnh của bác lên thờ. Vườn hoa năm xưa giờ cũng chẳng còn… Vườn hoa ấy như đã được "dọn" sang nhà ngoại, vì tôi thấy trước vườn, chỗ những luống rau ngày xưa, là một vườn hoa tươi thắm.

Buổi tối, tôi pha trà cho ngoại - ngoại có thói quen uống trà trước khi đi ngủ và vào mỗi buổi khuya thức dậy. Hai ông cháu cùng trò chuyện. Tôi hăng hái hứa với ngoại là sẽ dành dụm tiền để cho ngoại sửa lại gian thờ. Ngoại cười. Và tôi đề nghị ngoại cất pho tượng Phật cũ kỹ "mắt mũi kèm nhèm" ấy đi; tôi sẽ thỉnh cho ngoại một pho tượng Phật khác, đẹp hơn, tốt hơn. Ngoại cũng cười. Nhưng cười mà không đồng ý! Nhấp một ngụm trà, ngoại nói: "Phật nào cũng là Phật, nhưng đây là Phật của ngoại. Phật của ngoại là vậy đó, mắt mũi kèm nhèm rất… giống ngoại, con không thấy à? Ngoại ở với Phật gần trọn một đời rồi, giờ đây ngoại cũng đã sắp về với ngài. Con để dành số tiền đó mua hoa cúng Phật, mỗi tháng hai lần". Tôi biết mình lỡ lời, ân hận quá mà không biết nói gì, chỉ cúi đầu, lí nhí "dạ".

Khuya hôm đó, tôi thức dậy cùng ngoại. Cùng uống trà. Cùng tụng kinh, niệm Phật. Nam mô A Di Đà, Nam mô A Di Đà… Tiếng niệm Phật ấy ngày xưa đã đưa tôi vào giấc ngủ. Bây giờ, cũng tiếng niệm Phật ấy, đã khiến cho tôi tỉnh giấc - một giấc mộng dài, tưởng như đời mình không bao giờ thoát ra được…

Truyện ngắn của Đỗ Thiền Đăng


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20566)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18818)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18269)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19841)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14841)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12967)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13950)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14004)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17632)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15393)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14689)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14453)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21891)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20601)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25130)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14707)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18970)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20631)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25276)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15766)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15770)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20719)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17003)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20013)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31504)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36010)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23860)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26546)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant