Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Lý Do Nên Tu Tập Từ Bi Quán

20 Tháng Năm 201907:04(Xem: 5662)
Mười Lý Do Nên Tu Tập Từ Bi Quán

MƯỜI LÝ DO NÊN TU TẬP TỪ BI QUÁN

Tâm Tịnh

Là Tất Cả Mà Không Là Gì Cả

Từ Bicăn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanhPhật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từtâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543),  tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.


Chia sẻ tình thương bằng tịnh tài và tịnh vật cho những người khốn khó là một việc làm nhân văn, ý nghĩa, là biểu hiện của tâm từ bi của hành giả. Tuy nhiên quả thật thiếu sót khi hành giả không thực hành từ bi quán. Từ quánphương pháp đối trị sân giận, phát triển lòng từ cho bản thân, và cho vô lượng hữu tình, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, địa vị, tôn giáo, quốc gia, và hết thảy muôn loài khắp cả địa cầu này và cùng khắp phương xứ. Trong khi đó bi quán là phương thuốc đối trị tưởng hại, phát triển sự hiểu biết sâu sắc và thương xót trước những nỗi khổ của hữu tình, là duyên để hành giả phát tâm bồ đề, vì tâm bicông năng bạt khổ hữu tình. Cho nên, bài kết tập này trình bày mười lý do tại sao người con Phật nên thực hành tứ bi quán để lợi lạc cho bản thân, cho tha nhân, hết thảy hữu tình, cho xã hội và cho môi trường tự nhiên.

1.      Công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn

Cả hai nguồn kinh tạng – Nikàya (Pali) tạng và Hán tạng đều tán thán công đức vô lượng, bất khả tư nghị của từ bi quán. Đức Phật ví tất cả các công đức như xây chùa, đúc tượng, cúng dường Phậtchư Tăng, làm tất cả các thiện nghiệp trên thế gian không bằng một phần mười sáu công đức của người tu tập lòng từ. Đoạn trích dẫn sau đây trong Tăng Chi Bộ, Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử (X) (20): Velàma cho thấy việc bố thí hào phóng của đại triệu phú Bà-la-môn Velàma khi bố thí 84000 bát vàng chứa đầy bạc, 84000 bát bằng bạc chứa đầy vàng, 84000 bát đồng chứa đầy châu báu, 84000 con voi được trang trí cờ phướng bằng vàng với những đường viền bằng vàng, 84000 cổ xe tốt vv, việc xây tịnh xá, cúng dường tăng đoàn với đức Phật làm thượng thủ vv, tất cả không bằng người tu từ quán dầu chỉ một khoảnh khắc vắt sữa bò:

Thuở xưa, này Gia chủ, có một vị Bà-la-môn tên là Velàma. Vị ấy bố thí rộng lớn như sau: Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng vàng đựng đầy bạc. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng bạc đựng đầy vàng. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng đồng đựng đầy châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 con voi với đồ trang sức bằng vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng và 84.000 cỗ xe, được trải với da sư tử, được trải với da cọp, được trải với da báo, được trải với mềm màu vàng, với những trang sức bằng vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng. Vị ấy bố thí 84.000 con bò sữa, cột bằng những sợi dây gai mịn với những thùng sữa bằng bạc. Vị ấy bố thí 84.000 thiếu nữ, trang sức với những bông tai bằng châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 giường nằm trải nệm bằng len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, có đầu gối chân màu đỏ hai phía. Vị ấy bố thí 84.000 thước vải, bằng vài gai mịn màng nhất, bằng vải lụa mịn màng nhất, bằng vải len mịn màng nhất, bằng vải bông mịn màng nhất. Và ai có thể nói về các đồ ăn, đồ uống, loại cứng, loại mềm, các loại đồ ăn nếm và các loại nước đường. “Chúng tôi nghĩ chúng chảy như dòng sông”.

Có thể, này Gia chủ, Ông nghĩ: “Có thể Bà-la-môn Velàma là một người nào khác, vị đã bố thí một cách rộng lớn như vậy”. Này Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy. Chính lúc ấy, Ta là Bà-la-môn Velàma, chính Ta đã bố thí rộng lớn ấy. Nhưng này Gia chủ, khi bố thí ấy được cho, không có một ai xứng đáng để nhận bố thí. Không có một ai làm cho thanh tịnh bố thí ấy. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí này lớn hơn quả lớn kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho 100 người chánh kiến, và có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 người Nhất lai, và có ai bố thí cho một vị Bất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 vị Bất lai, và có ai bố thí cho một vị A-la-hán, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn hơn, và có ai bố thí cho một vị A-la-hán, và có ai bố thí cho một vị Độc Giác Phật, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có người bố thí cho 100 vị Độc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ, và có ai xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và Tăng, và có ai với tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu... Và có ai với tâm tịnh tín, chấp nhận học pháp... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu, và ai tu tập từ tâm giải thoát, cho đến trong khi khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí cho 100 vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí một vị Bất lai... và có ai bố thí trăm vị Bất lai, và có ai bố thí một vị A-la-hán... và có ai bố thí trăm vị A-la-hán... và có ai bố thí một vị Độc giác Phật, và có ai bố thí trăm vị Độc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng... và có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.

(Tăng Chi Bộ, Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử (X) (20): Velàma Kinh AN 9.20 (Kinh Velàma): https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau)

Trong Kinh Như Thị Ngữ (Tiểu Bộ), Đức phậtcông đức của người tu từ quán như ánh sáng trăng rằm vượt hơn tất cả ánh sáng của các vì sao gọp lại, được ví cho tất cả công đức mà ta đã thực hiện ở trên đời. (Tiểu Bộ Kinh, Kinh Như Thị Ngữ,  (XXVII) (Ek III, 7) (It. 19).

Một lần nữa trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm Phạm Hạnh (Hán Tạng) đã cho thấy công đức không thể nghĩ bàn của từ quán qua những câu kệ sau:

Giả sử tiên ngũ thông

Đông khắp mặt đất này

Có vua chúa tự tại

Dâng cấp đủ đồ dùng

Voi ngựa các vật dụng

Thí cho tiên được phước

Chẳng bằng tu lòng từ

Trong một phần mười sáu

(Đại Bát Niết Bàn Kinh, Phẩm Phạm Hạnh, tr. 519)

Rõ ràng những lời dạy của Đức Thích Tôn về từ bi quán cho thấy Đức Phật nhấn mạnh việc tu tâm (nội tâm không sân, không hại) hơn là việc hướng tâm trên các đối tượng bên ngoài (bố thí, cúng dường, xây chùa, đúc tượng vv) để tích lũy công đứcnội tâm không có tu tập. Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật phủ nhận công đức to lớn của việc bố thí, cúng dường. Việc bố thí, cúng dường làm việc từ thiện trong thế gian sẽ được kiên định, sâu rộng, viên mãn và lan tỏa hơn nhiều nhờ vào lòng từ bi được trưởng dưỡng qua thiền quán từ bi. Nói một cách khác, một khi nội tâm tràn đầy tình thương yêu, thì việc làm từ thiện, hay bố thí, cúng dường, hộ trì Tam Bảo sẽ dễ dàng thành tựuvững bền.    

2.      Điều phục sân giận

Sân giận khiến bạn bất an, nguyên nhân của khổ đau, của hận thùsợ hãi. Sân giận là nghiệp bất thiện, mà trong nhiều bài kinh ví sân giận như ngọn lửa chỉ trong giây lát thiêu đốt cả rừng công đức. Sân giận trước hết khiến mình khổ đau và khuôn mặt trở nên xấu xí, ôm hận, người đời xa lánh, ngủ không ngon giấc, chết trong si ámsau khi chết tái sanh vào đọa xứ. Đó là bảy điều bất lợi của tâm sân giận ( ( Tăng Chi BK III, Ch. 7 (X) 60, tr 409 - 413)). Để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau do sân giận gây ra, từ quán là liệu pháp trị liệu hữu hiệu. Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật nói từ tâm giải thoátcông năng điều phục sân giận, mang lại sự an lạc nội tâm cho hành giả (Mười Một Cửa Giài Thoát, Tâm Tịnh cẩn tập).

3.      Hóa giải hận thù

Gia đình bất hòa, vợ chống bất hạnh, khắp đó đây xung đột, chiến tranh, khủng bố thường xuyên xảy ra do hận thù, kết quả của sân giận, khiến cho cuộc sống của con người trở nên ngột ngạt. Để hóa giải hận thù, và chung sống an lành không gì hơn là trưởng dưỡng lòng tư bi qua việc thực hành từ bi quán trên tinh thần hiểu và thương, hiểu và thông cảm.

Chuyện 282 trong tập chuyện tiền thân của Đức Phật trong Tiểu Bộ Kinh kể lại chuyện một ông vua nhờ từ bi quánhàng phục vị vua cướp nước, cứu cả hai quốc gia lâm vào cảnh chiến tranh, chết chóc như đoạn trích sau:

Ông vua kia đã đến đây, phá hoại xứ sở để mong chiếm lấy Ba-na-lại. Xin cho chúng thần đi bắt ông ta!

- Ta không muốn giữ vương quốc bằng cách giết hại - vua bảo - Đừng làm gì cả.

Ông vua cướp nước kia bao vây thành phố. Các đại thần lại đến gần vua và nói:

- Tâu Đại vương, xin hãy lưu tâm. Hãy cho phép chúng thần bắt ông ta!

- Không được làm gì cả - vua phán - Hãy mở các cổng thành.

Rồi vua đoan nghiêm ngồi trên bệ, giữa các đại thần của triều đình.

Vua cướp nước vào thành, hạ các người giữ cổng rồi vào cung điện. Nơi đây, ông bắt giữ vua và các triều thần, trói xích lại rồi tống tất cả vào ngục. Vua ngồi trong ngục thương xót kẻ cướp nước kia, nỗi xót xa cùng cực trào dâng trong ngài. Do lòng thương xót kia mà ông vua nọ bỗng cảm thấy giày vò bứt rứt trong thân, cả người như bị thiêu đốt gấp hai lần lửa bỏng. Bị ray rứt xốn xang vì trọng tội, ông ta hỏi các cận thần vì sao như vậy.

Họ trả lời:

- Ngài đã bắt giam một vị vua công chính, do thế mà ngài bị như thế kia.

Ông ta liền đến xin Bồ-tát thứ lỗi, giao trả lại vương quốc

(282. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền thân Seyya)

4.      Hóa giải nghiệp xấu

Vua A Xá Thế vì tội giết vua cha mà sinh bệnh và sinh tâm sợ hãi. Trong khi tâm bị giày vò bởi tội ác của mình, Vua A Xà Thế được cận thần chánh trực Kỳ Bà khuyên đến gặp Phật để xin sám hối trong đó có đoạn kinh sau đây cho thấy tu một tâm lành có thể hóa giải nghiệp ác lớn:

Tạo nhiều điều ác chẳng bằng một điều lành. Hạ thần nghe Phật nói tu một tâm lành phá trăm điều ác. Như chút kim cang có thể phá hoại núi Tu Di cũng như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Cũng vậy, chút ít điều lành có thể phá nghiệp ác lớn. Dẫu gọi là chút lành nhưng kỳ thật là lớn vì phá được nghiệp ác lớn.

(Đại Bát Niết Bàn Kinh, Phẩm Phạm Hạnh , tr, 629).

Tu một chút tâm lành hóa giải nghiếp ác lớn huống gì người thực hành từ bi quán mỗi ngày, mỗi giờ, trong mọi thời gian, mọi oai nghi: Khi đứng, hay khi đi, khi ngồi hay khi nằm, hãy an trú niệm này, lâu cho đến khi nào khi đang còn tỉnh thức, là nếp sống tối thượng

(ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn, phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506))

5.      Điều phục thú dữ

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm Phạm Hạnh, Đức Phật đã nhập từ tâm tam muội điều phục con voi say hung dữ mà Đề Bà Đạt Đa thả ra để tiêu diệt Đức Phật (tr. 519).

Thời Đức Phật còn tại thế, có một số tỷ kheo bị rắn độc cắn chết khi đang hành thiền trong những khu rừng. Nhân đó mà Thế Tôn chỉ dạy thiền rải tâm từ (từ quán) cho các loài rắn và thú dữ để phòng hộ thân, và điều phục thú dữ như trong câu chuyện tiền thân số 203 trong Tiểu Bộ Kinh như sau:

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ tát sanh ra trong gia đình một Bà-la-môn ở nước Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành Bồ-tát đoạn tận các dục, xuất gia làm đạo sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi xây dựng am thất tại một khúc quanh của sông Hằng gần chân núi Tuyết và sống tại đấy, vui hưởng cùng thiền lạc với chúng đạo sĩ vây quanh.

Lúc bấy giờ, có nhiều loại rắn trên bờ sông Hằng làm hại các vị đạo sĩ, và phần lớn các vị ấy mệnh chung. Các vị tu khổ hạnh trình chuyện ấy với Bồ-tát. Ngài liền họp tất cả vị tu khổ hạnh lại, và nói:

- Nếu các ông tu tập từ tâm đối với bốn loại gia đình vua rắn này, các con rắn sẽ không cắn các ông, do vậy, bắt đầu từ nay, hãy tu tập từ tâm như vậy đồi với bốn loại vua rắn.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ta khởi lên từ tâm 
Với Vi-rù-pak-kha, 
Ta khởi lên từ tâm 
Với E-rà-pa-tha, 
Ta khởi lên từ tâm 
Với Chab-byà-put-ta, 
Ta khởi lên từ tâm 
Kan-hà-go-ta-ma.

Như vậy, sau khi nêu tên bốn gia đình vua rắn, Bồ-tát nói:

- Nếu các ông có thể tu tập từ tâm đối với những loài vật này, thì các con rắn không cắn, và không bức hại các ông.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Với các loài không chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Với các loài hai chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Với các loài bốn chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Nhiều chân hoặc không chân, 
Ta khởi lên lòng từ.

Như vậy, sau khi nêu rõ sự tu tập từ tâm của mình, Bồ-tát nói lên lời cầu nguyện với bài kệ:

Hỡi các loài không chân 
Chớ có làm hại Ta, 
Hỡi các loài hai chân, 
Chớ có làm hại Ta, 
Hỡi các loài bốn chân 
Chớ có làm hại Ta,
Hỡi các loài nhiều chân 
Chớ có làm hại Ta.

Rồi nêu rõ sự tu tập không hạn chế, Bồ-tát đọc thêm bài kệ này:

Tất cả loài chúng sanh, 
Tất cả loài hữu tình, 
Phàm tất cả sanh loại 
Có mặt ở trên đời, 
Mong được thấy tốt lành, 
Chớ có làm điều ác.

Như vậy, Bồ tát nói:

- Hãy tu tập từ tâm đối với tất cả mọi loài chúng sanh không có hạn chế.

Rồi Bồ-tát tán thán công đức của Ba Ngôi Báu với thính chúng:

- Vô lượng là Phật, vô lượng là Pháp, vô lượng là Tăng.

Bồ-tát nói tiếp:

- Hãy ghi nhớ công đức của Ba Ngôi Báu này.

Sau khi trình bày công đức Ba Ngôi báu là vô lượng, Bồ-tát nêu rõ các chúng sanh đều có hạn lượng, Bồ-tát nói thêm:

- Các loài bò sát, các loài rắn, các loài bò cạp, các loài một trăm chân, các loài nhện, các loài rắn mối, các loài chuột, đều có hạn lượng.

Rồi Bồ-tát lại nói:

- Vì tham dục trong nội tâm của những chúng sanh này khiến chúng có hạn lượng.

Sau khi nêu rõ như vậy, Bồ-tát nói thêm:

- Mong rằng chúng ta sẽ được bảo vệ ngày đêm đối với các chúng sanh có hạn lượng này nhờ uy lực của ba Ngôi Báu vô lượng. Vì vậy hãy nhớ ghi công đức của Ba Ngôi Báu.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này để nêu rõ việc cần phải làm thêm nữa:

Nay ta được bảo vệ, 
Nay ta được che chở,
Hỡi các loài sanh vật, 
Hãy đi xa, tránh xa! 
Con đảnh lễ Thế Tôn, 
Và bảy đức Phật-đà, 
Chư Phật đã tịch diệt.

Như vậy Bồ-tát khuyên:

- Trong khi đảnh lễ, hãy ghi nhớ bảy đức Phật.

Rồi Bồ-tát trao thần chú che chở này cho các đạo sĩ.

Bắt đầu từ đấy, các đạo sĩ vâng theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, tu tập từ tâm, ghi nhớ công đức chư Phật. Như vậy, nhờ các đạo sĩ ấy ghi nhớ các công đức chư Phật, tất cả các loài rắn đều bỏ đi. Còn Bồ-tát tu tập các Phạm trú (Bốn Vô lượng tâm) và được sanh lên Phạm thiên giới.

(Tiểu Bộ Kinh: Chuyện tiền thân số 203 Chuyện tu tập từ tâm (Tiền thân Khandha – Vatta).

6.      Không thất bại trong thiền định

Trong Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm nói về Nhất Pháp, Phật có nói một câu: ‘‘Nếu một vị khất sĩ tu Từ quán, dầu chỉ thực tập trong một chốc lát, thời gian bằng một cái búng tay thôi, thì vị khất sĩ đó đã xứng đáng là một vị khất sĩ rồi.’’ Câu nói đó chứng tỏ rằng Từ quán rất quan trọng trong đạo Phật. Phật nói tiếp: ‘‘Thầy khất sĩ đó sẽ không thất bại trong thiền định, sẽ làm được theo lời bậc đạo sư chỉ dạy, sẽ đáp ứngđược những lời khuyến dụ của các vị đạo sư. Và vị đó ăn cơm tín thí không uổng.’’ Nếu hằng ngày vị khất sĩ hành trì Từ quán, thì còn công đức gì nhiều hơn, và lớn hơn nữa?

7.      Vô úy, khôn sợ hãi

Khi nội tâm không sân giận, tình thương tràn đầy cho hết thảy hữu tình trong tất cả pháp giới, sự hận thù không còn trong nội tâm, thì vô úy, không sợ hãi là điều tất nhiên.

Trong Tiểu Bộ Kinh có một tích chuyện kể về tiền thân của Đức Phật sinh ra trong một ngôi làng. Một ngày nọ, Bồ Tát đã thành lập một nhóm chuyên làm việc thiện như xây cầu, đào giếng, bố thí vv. Nhờ kiên tâm hành thiệndanh tiếng của Bồ Tát được cả làng biết đến. Việc này khiến cho trưởng thôn sanh tâm ganh tỵ vu khống cả nhóm từ thiện này ăn cắp và trình lên vua. Vị Vua này bất cẩn không cần tra xét, và ra lệnh cho xử tử cả nhóm bằng cách cho những con voi giẫm đạp lên người. Bồ tát khuyên nhủ cả nhóm bình tĩnh, không nên sợ hãi mà khởi lòng từ đến các con voi. Nhờ phát khởi từ bi quán mà những con voi tránh xa, không giẫm đạp lên người, khiến cho vua phải kinh ngạc. Nhờ vậy, vua mới xét hỏi Bồ Tát và biết được sự thật. Bồ Tát và cả nhóm không những được minh oan mà còn được vua trọng thưởng (Tiểu Bộ Kinh, chuyện tiền thân của Đức Phật- Chuyện số… ).

8.      Giải thoát

Như trong Trung Bộ Kinh số 52 Bát Thành, những hành giả tu từ tâm giải thoát, bi thâm giải thoát một cách kiên cố, lạc thọ xuất hiện, và nhận biết lạc thọ này có được là do thực hành tinh tấn từ bi tâm giải thoát, là pháp hữu vi, vô thường nên chịu sự hoại diệt. Từ đây quán tánh ly tham, quán tánh đoạt đoạn diệt, quản tánh xả ly của pháp này, thì sẽ được giải thoát (Mười Một Cửa Giải Thoát, Tâm Tịnh cẩn tập).

9.      Phương tiện tùy duyên chúng sanh, hành bồ tát đạo

Trong Kinh Tăng Nhất A HàmThế Tôn cũng ân cần khuyến tấn chư Tỷ kheo tu sức đại từ bicủa chư Phật vì lợi ích chúng sanh: “Chư Phật Thế Tôn thành tựu đại từ bi, lấy đại từ bi làm sức mạnhđể lợi ích rộng rãi cho chúng sanh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành sức đại từ bi này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này” (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Lực , VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.482)

 

10.  Mười một lợi ích của từ quán

Này các tỳ-khưu, Từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?

(1) Ngủ an lạc, (2) thức an lạc, (3) không ác mộng, (4) được loài người ái mộ, (5) được phi nhân ái mộ, (6) chư thiên bảo hộ, (7) không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, (8) tâm được định mau chóng, (9) sắc mặt trong sáng, (10) mệnh chung không hôn ám; (11) nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả), được sinh lên phạm thiên giới.

Này các tỳ-khưu, Từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.

(Tăng chi bộ, Chương XI Tâm Từ (AN 11.16) (Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Lời Kết: Từ bi quánpháp hành thiền thiết thực, có công năng chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, hạnh phúc, giải thoát, niết bàn. Từ bi quánphương tiện để trưởng dưỡng tâm từ bi của người con Phật, nhất là những hành giả phát bồ đề tâm lợi mình, lợi người, lợi cho xã hội và cho môi trường thiên nhiên.

Nguyện đem công đức này

Hướng về chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh cõi Cực Lạc


Tâm Tịnh cẩn tập

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24139)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20564)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18812)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21311)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18266)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19838)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14837)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13944)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13143)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15390)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17846)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19446)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14702)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21989)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20620)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15764)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20707)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18625)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30592)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23852)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26542)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant