Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Kỳ Lạ Của Kinh Kim Cang

02 Tháng Sáu 201909:56(Xem: 6704)
Sự Kỳ Lạ Của Kinh Kim Cang

SỰ KỲ LẠ CỦA KINH KIM CANG

Thiện Quả
Đào Văn Bình


Sự Kỳ Lạ Của Kinh Kim Cang

Trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa, có một giai thoại về Kinh Kim Cang còn truyền tụng cho tới ngày  nay đó là Lục Tổ Huệ Năng. Huệ Năng sinh trong một gia đình nghèo, phải phụ mẹ bán củi. Một hôm đi ngang nhà phú ông tụng Kinh Kim Cang có đoạn, “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Tâm trụ tức tâm bất trụ”, Huệ Năng hốt nhiên đại ngộ. Huệ Năng về nhà xin mẹ xuất gia với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, được trao truyền y bát của Phật Tổtrở thành truyền nhân đời thứ sáu của Thiền Tông và cũng là sinh mệnh của Phật Giáo.

Đó là chuyện ở bên Trung Hoa. Còn ở Việt Nam, sách Khoa Cử Việt Nam của Đỗ Trọng Huề, viết chung với thân phụ là Cụ Đỗ Bằng Đoàn, xuất bản năm 1998 tại Gia Nã Đại có một giai thoại liên quan đến Kinh Kim Cang như sau:

“Lê Ích Mộc quê Làng Thanh Lãng, Huyện Thủy Nguyên, Tỉnh Kiến An. Năm Cảnh Thống thứ 5 đời Lê Hiến Tông, lên Thăng Long thi Hội. Qua quãng đường vắng thấy trời sắp tối mà chung quanh tuyệt đối không có xóm làng nào để vào ngủ trọ. Gần đấy chỉ có một ngôi chủa cổ gọi là Chùa Diên Phúc, thầy trò (tiểu đồng) xin vào ngủ nhờ qua đêm. Sư cụ tiếp đãi rất tử tế, làm cơm chay mời ăn. Ăn xong lên phòng khách uống trà. Lê Ích Mộc thấy trên án thư có bộ Kinh Kim Cương liền mở ra xem suốt từ đầu đến cuối, nhập tâm nhớ hết. Sáng hôm sau từ tạ nhà chùa ra đi sớm.

Khoa ấy có hơn năm ngàn sĩ tử ứng thí. Đầu bài văn sách hỏi về công việc của đế vương trị nước. Hôm yết bảng, Lê Ích Mộc trúng cách. Đến khi thi Đình, Vua Hiến Tông đích thân ra đầu bài văn sách, dài hơn ba tờ giấy viết hai mặt, mỗi mặt chín dòng. Đoạn cuối hỏi về nghĩa lý kinh Phật trong đó có câu:

“Kim Cương tam thập nhị phận, hà phận vô Tu Bồ Đề? (Trong Kinh Kim Cương có 32 phần, phần nào không có chữ Tu Bồ Đề?)

Luận Ngữ thập nhị thiên, hà thiên vô Tử Viết? (Trong sách Luận Ngữ có 20 thiên, thiên nào không có chữ Tử viết tức Khổng Tử nói?)

Lê Ích Mộc vừa xem Kinh Kim Cương ở Chùa Diên Phúc, ông còn nhớ rõ ràng. Ông trả lời:

“Kim Cương tam thập nhị phận, duy pháp hội nhân, do phận vô Tu Bồ Đề.”(Chỉ có phần pháp hội nhân là không có Tu Bồ Đề.)

“Luận Ngữ thập nhị thiên, duy Hương Đảng thiên vô Tử viết.” (Duy có thiên Hương Đảng, thiên thứ 10 là không có hai chữ Tử viết.)

Hôm vua chấm quyển, khen ông học lực quán trường, lấy đỗ Trạng Nguyên trên 60 người khácLê Ích Mộc làm quan tới Tả Thị Lang. Khi ông chết, nhân dân địa phương lập miếu và tạc tượng ông thờ ở cạnh Chùạ Diên Phúc. 

Đấy là những chuyện kỳ lạ về Kinh Kim Cang. Còn riêng cá nhân tôi cũng có “duyên kỳ ngộ” với Kinh Kim Cang. Vào khoảng năm 1980, sau năm năm cải tạo, đã thấm mùi đau khổ, anh em tại trại Hà Tây - Hà Sơn Bình bắt đầu tìm vào tôn giáo để làm chỗ dựa tinh thần. Có lẽ do sự dễ dãi, làm ngơ của các giám thị cho nên đã đem vào được các bộ kinh như Viên Giác, Kim Cang, Pháp Hoa…truyền tay nhau chép lại, nghiên cứu, giảng thuyếtđọc tụng kể cả xin nhà bếp cho ăn chay. Riêng tôi, rất ái mộ hai bộ Viên GiácKim Cang. Cứ mỗi tối, ngồi xếp bằng tròn, tụng nho nhỏ Kinh Kim Cang. Có điều lạ là một vài anh em nói rằng họ không dám tụng kinh này vì mỗi lần tụng Kim Cang là thấy ma quỷ hiện lên quấy phá. Còn tôi thì rất thung dung, thoải máivui sướng mỗi khi tụng Kim Cang. Chẳng hiểu tại sao.

Được thả ra năm 1984, tôi để lại tất cả cho các bạn chưa được thả. Khi về nhà, tôi ra chợ trời lùng kiếm kinh Phật và may mắn mua được cuốn Kim Cang Kinh của học giả Đoàn Trung Còn, in trên giấy vàng khè, bìa đã sờn rách, xưa cũ lắm rồi. Ở nhà được một tháng tôi quyết định vượt biên với số tiền do bà chị ruột cho. Khi vượt biên, tôi không mang theo gì hết ngoại trừ bộ kinh này. Tôi lấy một bao ny-lông bọc cuốn kinh lại, nhét trước ngực ở bên trong chiếc áo len, bên ngoài khoác chiếc áo màu xanh công nhân. Chúng tôi vượt biển tại Bà Rịa và tới một thôm xóm hẻo lánh  trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu vào lúc 7 giờ tối. Cậu bé hướng đạo đưa chúng tôi vượt qua một khu xóm và tới ven bờ sông. Tại đây chúng tôi chờ trong nghẹt thở đến khoảng 10 giờ đêm mới được tắc-xi (ghe nhỏ) chở ra cửa biển để ra gặp “con cá lớn” (ghe vượt biên). Chờ trong hồi hộp, lo âu muốn vỡ tim suốt đêm đó mà không thấy “con cá lớn” đâu cả. Khi mặt trời ló dạng, chúng tôi nhận ra chỗ mình đang đứng là một khoảng trời nước bao la, chung quanh là rừng tràm bạt ngàn. Đây là cửa biển, cho nên buổi tối lúc thủy triều lên thì nước ngang tới bụng. Buổi sáng khi nước xuống là một bãi xình lầy không sao ngồi được mà phải đứng lóp ngóp. Toán người vượt biên hết sức lo âu. Cộng thêm nỗi kinh hoàng đó là sự xuất hiện của một gã “canh me” vai vác một con dao thật dài, chèo ghe hết chỗ này chỗ kia…mắt trừng trừng nhìn vào đám người vượt biên đang lúc nhúc ở bãi xình lầy. Bà chủ ghe sợ quá, lội nước vòng quanh xin mỗi người đóng góp chút tiền cho gã này đi khuất cho rồi. Tôi trút hết số tiền “độ nhật” trong túi đưa bà chủ tàu để cúng gã “canh me” này. Khi gã “canh me” đi rồi, nỗi lo sợ lại càng tăng thêm. Không còn con đường nào cứu nguy, chỉ còn nương nhờ vào sự linh thiêng, màu nhiệm. Tôi đạp mấy cây bần đè lên nhau để làm chỗ ngồi, nhưng vẫn ướt đầy bùn. Tôi rút cuốn Kinh Kim Cang trong người ra, ngồi xuống và đọc tụng giữa khoảng trời nước mênh mông và trong nỗi lo sợ tột cùng. Chờ suốt cả ngày hôm đó, may đâu vào lúc nửa khuya, “con cá lớn” xuất hiệnchúng tôi leo lên.

 Có thể do may mắn, do phúc đức hay do Đại Thần Kim Cang, Thanh Tịnh Trừ Tai Kim Cang hộ trì. (*) tàu đi êm xuôi, không gặp hải tặc và tắp vào  bờ biển Terengganu, Mã Lai. Ở Terengganu một ngày thì được xe đưa tới trại chuyển tiếp Marang rồi được tàu chở ra Đảo Bidong. Ở Bidong được khoảng một tháng thì được tàu di chuyển về Sungai Besi là trại tạm giam ở đất liền, gần Thủ Đô Kualar Lumpur.

Tại Sungai Besi có một ngôi chùa tên Bồ Đề Lan Nhã không biết dựng lên từ lúc nào. Có điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là đằng sau bức tượng Phật là một bức tranh lớn vẽ cây bồ đềcảnh trí của một khu rừng theo Trường Phái Lập Thể (Cubic do danh họa Picasso sáng tạo) thật đẹp. Thì ra đây là tác phẩm của họa sĩ Tạ Tỵ, người nổi danh với lối vẽ lập thể, đã vượt biển tới đây trước và đã vẽ bức tranh này. Vì trại Sungai Besi gần Thủ Đô Kuala Lumpur nên các bà mệnh phụ, giàu có người Hoa thường ghé thăm chùa để an ủi và tặng rất nhiều kinh sách. Thời giờ ở đây rất rảnh rỗi cho nên tôi dành hết thời gian phục vụ cho chùa. Tôi làm Trưởng Ban Hoằng Pháp và được  trụ trì tạm thời lúc bấy giờ là Đại Đức Thích Minh Dung (còn trẻ, người Huế) và sau này là Sư Cô Thích Nữ Liên Chi (đã viên tịch) cho đọc tin tức Phật sự trước khi hành lễ. Tôi lo sợ khi định cư vào Mỹ không có kinh sách cho nên tôi ra sức chép kinh. Tôi đã chép The Diamond Sutra (Kinh Kim Cang) do Ngài Kumarajiva  dịch từ tiếng Sanskrit ra tiếng Hán rồi do Ngài Upasaka Lu K’uan-Yu dịch từ tiếng Hán qua tiếng Anh. Rồi Bát Nhã Tâm Kinh (The Prajna -Paramita- Hridaya Sutra) do ngài Hsuan Tsang dịch từ Sanskrit sang tiếng Hán và ngài Upasaka Lu K’uan-Yu dịch từ tiếng Hán qua tiếng Anh. Rồi Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (The Great Vows of Samantabhadra) của Garmac C.C. Chang dịch từ tiếng Hán qua tiếng Anh. Rồi Ullambana Sutra (Phật thuyết Vu Lan Bồn Kinh) bằng tiếng Anh. Ở trại tỵ nạn xa nhà, cô đơn, buồn tủi, không biết mai đây sẽ trôi giạt về nơi nao cho nên thèm thuốc lá kinh khủng. Không thuốc lá kể như chết nửa đời người. Thế nhưng tôi miệt mài chép kinh từ sáng tới 12 giờ trưa, chẳng nhớ đến thuốc và chẳng hút điếu nào. Khi chợt tỉnh, trong tôi lóe lên một ý tưởng, “Từ sáng tới giờ mình không hút điếu nào.  Thôi thì bỏ không hút nữa.” Và không biết có phải do “Phật pháp nhiệm màu” mà ngay giờ từ phút đó tôi bỏ luôn thuốc lá và cho tới nay, hơn 35 năm tôi không cầm tới điếu thuốc lá …dù để cầm chơi cho đỡ nhớ.

Lên đường định cư vào Hoa Kỳ năm 1985, tôi mang theo cuốn Kinh Kim Cang và tất cả những kinh gì tôi ghi chép tại Sungai Besi. Tất cả hiện đang ở trước mắt tôi đây. Riêng với bộ Kinh Kim Cang, tôi không phải chỉ đọc tụng, mà đặt trên bàn thờ Phật để “thờ” và đã đọc tụng suốt mấy chục năm qua. Đọc tụng như thế đã bao lần, nhưng có một lần cách đây vài năm. Khi đọc tới đoạn “Này Tu Bổ Đềpháp cao thượng còn xả bỏ huống hồ không phải pháp.” tự nhiên tôi không cầm được nước mắt và cứ vừa đọc tụng vừa khóc nức nở như một đứa trẻ. Tôi đột nhiên xúc động vì tấm lòng cao thượng và khiêm tốn của Đức Phật – điểu chưa từng thấy trong số các giáo chủ của các tôn giáo trên thế giới. Có giáo chủ tôn giáo nào dám nói tới việc xả bỏ giáo pháp của mình không? Chỉ có Đức Phật mà thôi. Giáo pháp của ngài đứng sừng sững trong dòng tư tưởngtâm linh của nhân loại đã hơn 2500 năm và đang có khuynh hướng trở thành lương tâm của nhân loại. Thế nhưng nếu ta cứ chấp chước vào đó thì chúng ta sẽ bị pháp trói buộc. Khi đã hết khổ, khi đã ung dung tự tại, thì giáo pháp cần phải xả bỏ cũng như chiếc bè đã qua sông thì ôm chiếc bè làm gì? Một số tôn giáo trở nên cực đoanchấp trước vào giáo pháp của mình là tối thượng, là tối linh là miên viễn cho nên đã gây khổ đau cho nhân loạiGiáo pháp của Phật chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Nếu cần xả bỏ thì phải xả bỏ. Thật vĩ đại thay tư tưởng của Phật. Thật từ bi thay giáo pháp của Phật. Thật lành thay tấm lòng của Phật. Cũng chính vì thế mà khi Phật thuyết Kinh Kim Cang, vì hiểu được tấm lòng của Phật mà ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề đã khóc.

Kể về những giai thoại liên quan đến Kinh Kim Cang trong lịch sử và duyên may của chính bản thân mình với kinh này, tôi không có ý đề cao sự màu nhiệm của Kinh Kim Cang. Cái đó để  từng người phán xét “Linh tại ngã, bất linh tại ngã.” Sự màu nhiệm ở đây không phải Kinh Kim Cang đã giúp tôi qua cơn nguy khốn rồi bỏ được thuốc lá…mà là ý nghĩa tuyệt vời của kinh. Muốn giải thoát, muốn an nhiên tự tại, hành giả phải phá chấp, không chấp trụ vào đâu, dù là giáo pháp để sanh tâm mình. Tâm không trụ là tâm Phật. Đó là yếu chỉ của Kim Cang. Kinh Kim Cang chính là kinh phá bỏ mọi ràng buộc để đi tới thanh tịnh, giải thoát.

Sự vĩ đại của một con người không nằm ở chỗ gom góp tất cả những gì đang có trên thế gian này để làm của cải hay tài sản riêng cho mình. Sự vĩ đại nằm ở chỗ dám xả bỏ tất cả những gì mình đang có để cống hiến cho đời. Và Đức Phật chính là con người như vậy.

Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 22/5/2019)

(*) Trong nghi thức tụng Kinh Kim Cang, học giả Đoàn Trung Còn có ghi phần Phụng Thỉnh Bát Kim Cang như sau:

Phụng thỉnh thanh từ tai Kim Cang. Phụng thỉnh tỵ độc Kim Cang. Phụng thỉnh hoàng tùy cầu Kim Cang.

Phụng thỉnh bạch tịnh thủy Kim Cang. Phụng thỉnh xích thanh hỏa Kim Cang. Phụng thỉnh định trừ tai Kim Cang. Phụng thỉnh tử hiền Kim Cang. Phụng thỉnh đại thần Kim Cang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8529)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 12046)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10806)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10575)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13387)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8297)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10244)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8687)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9801)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10277)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 10105)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 8917)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22506)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10264)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
(Xem: 12013)
Nụ cười của Đức Phật trên các pho tượng phản ảnh cho tâm an nhiên, tự tại. Cũng thế, các vị đại sư dành hết cuộc đời mình tu tập...
(Xem: 14226)
Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng
(Xem: 11137)
Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng.
(Xem: 9902)
Cuộc đời đầy những bài học cho ta tu tập, nếu ta có đủ kiên trì.
(Xem: 18895)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ.
(Xem: 10523)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành.
(Xem: 10673)
Đức Phật dạy vạn pháp vô ngã, vô thường. Thân con người còn không thật có (vô ngã, do duyên sinh), huống chi là tài sản của cải là vật ngoài thân.
(Xem: 11758)
“Chỉ là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được.
(Xem: 10189)
Vì là cá nhân mỗi người thụ hưởng hoan hỉ hay đớn đau, tạo rắc rối và tích tập nghiệp báo – tất cả sự ồn náo và rối rắm được làm ra bởi tự ngã
(Xem: 11331)
Sự quan tâm giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tính đạo đức nhân văn cao cả mà chúng ta ai cũng có thể làm được.
(Xem: 8897)
Phật dạy, nếu người có hiểu biết chân chính sẽ tôn trọng chân lý, khi đưa ra một ý nghĩ gì đều nói “đây là suy nghĩ của chúng tôi”,
(Xem: 12765)
Chúng ta đều biết, đạo Phậttrung đạo. Đức Phật cũng nhờ tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnhthành tựu đạo quả.
(Xem: 10468)
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt.
(Xem: 11080)
Nguyện cầu Tam Bảomười phương chư Phật chứng giám cho lòng thành của chúng em; cầu mong hương linh Anh được an lạc nơi tịnh thổ.
(Xem: 17267)
Chúng ta đừng nên hứa một điều gì với ai khi đang vui. Bởi vì lời hứa ấy có thể làm cho người khác thất vọng, vì ta hứa mà không làm được.
(Xem: 10689)
Tất cả mọi người đều biết khổ - nhưng không thật sự hiểu khổ. Nếu thực sự hiểu khổ thì chúng ta đã có thể chấm dứt khổ.
(Xem: 10184)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tạivị lai.
(Xem: 11371)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ...Trong những cái sợ này có cả sợ ma.
(Xem: 16394)
Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện.
(Xem: 12582)
Học cách hiểu thất bại thế nào là một kỹ năng ít được nói đến, nhưng lại rất cần trong cuộc sống.
(Xem: 16519)
Dưới ánh sáng tỉnh thức, bạn sẽ biết rõ mình đang làm gì, đang đi đâu và về đâu. Và rồi bạn sẽ tự vén lên những bức màn bí ẩn của thân phận và cuộc sống bằng chính năng lực tỉnh thức của mình.
(Xem: 24955)
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”.
(Xem: 9199)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả.
(Xem: 11684)
An là an tịnh nội tâm, còn Cư là kỳ hạn cư trú trong suốt một thời gian nhất định nào đó, mà theo giới luật là ba tháng.
(Xem: 9794)
Khi đến tu viện, các nhà sư và các sư cô mới vào tu, thường hỏi vị sư trụ trì hướng dẫn cách thực hành Con Đường Giải Thoát.
(Xem: 11461)
Quên cái danh thì tự khắc sẽ được an vui. Quên mình đi thì kẻ khác ắt có hạnh phúc. Vui với thành công của người thì niềm vui tăng mãi. Thương yêu tất cả thì lòng hóa vô biên.
(Xem: 9506)
Tôi chẳng làm gì cả. Sự-nhận-biết-về-cái-tôi của tôi đã bị quét sạch đi, từ ngày rất xa xưa rồi. Giờ đây, không còn "cái Tôi" để làm gì cả.
(Xem: 15531)
Tâm của con cũng như vậy. Khi rối loạn, hãy để yên. Rồi chờ một lát. Rối loạn tự ngừng lại. Con không cần gắng sức. Bình yên sẽ đến. Mà không cần làm gì cả.
(Xem: 10699)
Nghe chuông phiền não nhẹ lâng lâng Bồ đề thêm lớn Tuệ sáng ngần Xa rời địa ngục qua hầm lửa Nguyện thành như Phật độ chúng sanh.
(Xem: 14775)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn...
(Xem: 10705)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc.
(Xem: 11384)
Trong những năm gần đây, tình hình bão lũ, động đất, sóng thần xảy ra khắp mọi nơi với cường độ càng ngày càng mạnh có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của rất nhiều người và động vật.
(Xem: 8734)
Trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
(Xem: 9740)
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy.
(Xem: 9516)
Theo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật...
(Xem: 10528)
Rất lạ là có nhiều người không biết thương chính bản thân. Có lẽ do họ nghĩ rằng thương yêu chính bản thân là điều dễ làm nhất trên đời nầy, vì ai cũng lo cho mình là trước nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant