Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trói Buộc Từ Đâu?

04 Tháng Bảy 201904:22(Xem: 6197)
Trói Buộc Từ Đâu?

TRÓI BUỘC TỪ ĐÂU?

Thích Nữ Huệ  Trân

 Sự Buông Xuống Sau Cùng

 

          Khi công tử A-Nậu-Lầu-Đà thưa với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc nhiên nhưng rất lo lắng và buồn khổ.

          Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay hai người con trai của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết pháp khi Ngài cùng tăng đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính bản thân bà, khi đến nghe Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì những lời dạy từ bi, và dáng vẻ uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức Phật.

          Phật cùng tăng đoàn đã rời vương quốc này, đi về hướng Câu-Tát-La mấy ngày nay rồi mà bà còn tưởng nhớ tới những lời Phật dạy.

          Nhưng bà chỉ có hai người con trai mà bà yêu quý nhất trên đời, nếu con bà xuất gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu?

          Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu sẽ trở thành một người giác ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não thế gian. Đó có phải là điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình đạt được hay không?

          Tận đáy thâm tâm, người mẹ cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà vớt vát bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ được Tổng trấn Bạt-Đề cùng đi.

          Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng giữ được con, vì Tổng trấn Bạt-Đề - bạn thân thiết của con bà - là người giầu sang, quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà xuất gia theo Phật?

          Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu-Lầu-Đà về nhà, hớn hở nói với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công việc rồi sẽ cùng cậu xuất gia!

 

          Trên đường tìm đến nơi Phật đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng thuộc giòng dõi quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân. Chiếc xe tứ mã đưa nhóm người trẻ đi cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc coóc như nhạc đệm của bản trường ca ngân vang bất tận…..

          Khi qua khỏi khu rừng thưa, đến đầu một thôn xóm, công tử Bạt-Đề dừng cương, nhìn một lượt khắp các bạn rồi bỗng phá lên cười sặc sụa. A-Nậu-Lầu-Đà hỏi bạn:

          - Có điều chi mà huynh dừng xe, cười dữ vậy?

          - Không buồn cười sao được, này, chúng ta hãy đều tự nhìn lại mình xem, có ai đi xuất gia tu họcăn mặc sang trọng như vậy không? Mũ áo xênh sang chưa đủ, còn vòng vàng châu ngọc đeo đầy người thế kia! Chúng ta không định làm trò cười đấy chứ?

          Bấy giờ, ai nấy đều xuống xe, xăm soi, ngắm nghía mình và rồi tất cả cùng rũ ra cười.

          Quả đúng như công tử Bạt-Đề nói, họ còn trẻ trung, năng động nên quá hồn nhiên, đi xuất gia mà vẫn trang phục như đi du xuân ngắm cảnh.

          Thế là họ cùng đồng ý buộc giây cương chiếc xe tứ mã vào cây sồi ven đường, cởi bỏ áo quần sang trọng, chỉ mặc bộ đơn giản nhất. Bao nhiêu bạc vàng châu báu cũng trút hết, cho vào một túi vải, và cùng tiến về thôn làng trước mặt với ý định sẽ trao tặng cho những người nghèo khổ trong làng.

          Nhưng ngay trên con đường đất đỏ dẫn vào làng, họ thấy một quán lá xiêu vẹo. Đó là quán hớt tóc của một thanh niên trạc tuổi họ, gương mặt sáng sủa khôi ngô nhưng áo quần thì rách rưới, nghèo nàn.

          Họ ghé vào quán, hỏi đường tới biên giới vương quốc Câu-Tát-La.

          Người đó biết ngay là họ muốn tìm tới nơi Đức Phật đang thuyết giảng vì mấy ngày nay cũng có nhiều người đi tới đây, rồi không biết phải rẽ hướng nào mới tới biên giới Câu-Tát-La.

          Sau khi được chỉ đường rất ân cần, cặn kẽ, công tử A-Nậu-Lầu-Đà đại diện các bạn, tặng người hớt tóc nghèo khổ gói châu báu và tất cả áo quần sang trọng cùng chiếc xe tứ mã, vì từ nay họ không còn cần tới nữa.

          Người hớt tóc đứng lặng, ôm gói châu báu, nhìn theo những vị công tử khuất dần sau cánh rừng thưa.

          Mở túi vải ra, người ấy rụng rời, sửng sốt.

          Chưa từng bao giờ trong đời, người ấy được nhìn thấy những vòng xuyến lộng lẫy thế này, chứ đừng nói là được chạm vào, được sờ vào! Nay, không những được thấy, được cầm, mà tất cả những trang sức đắt giá này đều thuộc về mình.

          Người đó cảm thấy sung sướng đến muốn ngất đi. Thôi, từ nay hết nghèo, hết đói, hết bị xua đuổi khinh khi.

          Người ấy ngồi bệt ngay trên nền đất, ôm chặt gói châu báumơ màng tận hưởng.

          Nhưng rồi người ấy chợt tỉnh, đứng bật dậy, hốt hoảng nhìn quanh.

          May mà xung quanh vắng lặng, không một bóng người chứ nếu có ai biết, ai thấy người ấy đang ôm gói châu báu trong tay thì chắc chắn mạng này chẳng còn!

          Lại nữa, với bạc vàng của cải như vầy, làm sao người ấy có thể an giấc trong đêm nơi chòi lá trống trải này? Biết cất giấu ở đâu?

Nếu muốn hưởng cũng làm sao để hưởng, khi từ xưa, người ấy đã thuộc ngoại cấp, nghĩa là giai cấp nghèo hèn tận cùng trong xã hội? Quan quyền sẽ đến tra vấn và dù có nói thật cũng không ai tin lời một người cùng đinh, nghèo khổ?

          Những dấu hỏi kinh khủng này khiến người ấy run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm vì sợ hãi.

          Người ấy chợt nhận ra rằng, chỉ dăm phút trước đây thôi, tuy nghèo nhưng an vui thanh thản. Dăm phút sau, có cả một tài sản lớn lao trong tay mà bất an, hốt hoảng, lo sợ tứ bề!

          Người ấy cũng lại nghĩ, những vị công tử giòng dõi quyền quý kia, tài sản của họ hẳn có gấp trăm lần thế này mà họ bỏ hết, đi tìm Phật, thì chắc là những gì Phật sẽ cho họ phải lớn lao vô cùng so với tài sản kia. Còn ta, ta nghèo quá, chẳng có gì phải bỏ, còn không theo bước họ, tính đợi đến bao giờ?

          Nghĩ tới thế, tâm người ấy lập tức trở lại trạng thái bình an, vui vẻ.

          Người ấy nhìn quanh rồi chọn một nhánh liễu cao, buộc gói châu báu trên đó với ý nghĩ, ai tìm thấy trước sẽ là sở hữu chủ.  

          Rồi chẳng buồn nhìn lại thôn xóm, người ấy rảo bước, chạy về hướng biên giới Câu-Tát-La, mong bắt kịp nhóm vương tử để được đi cùng.

 

          Sau này, người thợ hớt tóc nghèo nàn ấy chính là Tôn Giả Ưu Ba Ly - Giới Luật Đệ Nhất - là một, trong mười đại đệ tử xuất sắc được hầu cận bên Phật.

 

          Nghe lại câu chuyện này, chúng ta có dành ra đôi phút để tự hỏi: “Trói buộc từ đâu?” hay không?

 

  TN Huệ  Trân
(Độc-Cư-Am, đêm trăng 16)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 97)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 165)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 180)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 168)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 261)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 286)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 402)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 306)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 322)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 394)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 363)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 351)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 322)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 370)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 367)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 293)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 240)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 288)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 306)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 396)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 459)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 463)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 476)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 440)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 449)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 716)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 682)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 961)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 539)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 769)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 591)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 589)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 468)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 582)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 557)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 735)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 526)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 908)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 655)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 651)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1084)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 748)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 644)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 992)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 609)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 729)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 710)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 685)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 706)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 700)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant