Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế

29 Tháng Hai 202009:07(Xem: 5560)
Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế
Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế.
(Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư)

Thích Như Điển

 

Đọc câu văn trên bằng chữ Hán, có nhiều người sẽ hiểu đại khái là: Vô thường già bịnh không hẹn một ai. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát na đã qua đời khác…. Dĩ nhiên là bài văn Cảnh Sách nầy còn nhiều đoạn ở trước và sau đó nữa, chứ không phải chỉ có hai câu nầy. Đây là sách gối đầu giường của những Chú và Cô Sa Di, Sa Di Ni lúc mới thọ giới xong, cần phải học thuộc lòng. Thế nhưng, đây cũng không phải chỉ hoàn toàn dành cho người mới vào cửa Đạo, mà những vị thâm niên ở chùa năm, bảy chục năm khi đọc lại những đoạn văn Cảnh Sách như thế nầy ngẫm ra thấy cũng thấm thía vô cùng. Trong giới tu hành không ai phủ nhận điều nầy cả, mà ngay cả người Phật tử hay người khác Đạo, khi nhận chân ra được sự vô thường của mọi vật thể trên thế gian nầy, thì cũng đều công nhận lời dạy của Tổ Quy Sơn chẳng sai một mảy may nào.

 

Sở dĩ kỳ nầy tôi lấy đề tài hơi dài như vậy, vì sau khi Thầy Trò chúng tôi đã ở tại Tu Viện Vô Lượng Thọ, nơi Thầy Hạnh Tấn Trụ Trì gần một tuần lễ để dịch quyển “Giới Đàn Tăng” của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa sang tiếng Đức, nhằm giúp cho các thế hệ đi sau ở ngoại quốc nầy dễ hành trì khi trao truyền các giới như: Ngũ giới, Sa Di, Sa Di Ni, Bát Quan Trai giới, giới Bồ Tát Xuất Giatại gia, giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cho người Đức cũng như người Việt dễ hiểu hơn, đồng thời cũng để tán dương công hạnh của chư Tổ Sư Việt Nam đã truyền thừa qua các thời đại, không giống hệt những Tổ Sư khác của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay Tây Tạng, mà chúng ta có một văn hóa riêng, một ngôn ngữ riêng, khi đã xay nhuyễn từ chữ Hán như Phật giáo Nhật Bản đã làm lâu nay. Kế đó chúng tôi lái xe sang thủ đô Phraha của Tiệp Khắc vào cuối tuần từ ngày 21 cho đến ngày 24 tháng 2 năm 2020 vừa qua. Trước đó phái đoàn chúng tôi cũng đã có ghé thăm Chùa Giác Ý của Thầy Hạnh Tâm tại Zwickau, Tịnh Thất nơi Thầy Hạnh Nhơn ở tại Muda và trên đường đi Finsterwalde ở Pechhutte cũng như địa phương điện ảnh nổi tiếng Karlovy Vary(Karlsbad) cả hai nơi đều có Tu Viện Pháp Quang và Pháp Quang Chơn Pháp do Thầy Thích Pháp Nhật Trụ Trì. Nơi rừng rậm và những cánh đồng hoang, ở tận chỗ rừng tối tăm(Finsterwalde)như thế, mà có ánh sáng Phật Pháp để cho những người Việt và Đức theo học Thiền thì quả thật là quá tuyệt vời rồi. Hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 2020. Ngày nầy, tháng nầy, năm nầy có đến 5 con số 2 và cũng là ngày tôi đã ở ngoại quốc đúng 48 năm, và khi quý vị đọc bài nầy của tôi viết thì đã sang năm thứ 49 mà tôi đã ở ngoại quốc rồi. Đó cũng là vô thường vậy. Vì ngày 22/2/1972 khi tôi rời nước Việt sang Nhật Bản du học, thì tôi cũng đã chẳng nghĩ rằng mình phải ở lại ngoại quốc cho đến ngày hôm nay. Chỉ còn gần 2 năm nữa là tôi sẽ ở ngoại quốc được nửa thế kỷ rồi còn gì nữa. Ở đây cũng có sự trùng hợp lạ thường là trưa đó Thầy Pháp Nhật dẫn phái đoàn Thầy trò chúng tôi đến nhà hàng Mr. Tokyo chưa khai trương, để dùng trưa theo truyền thống cơm chay của Nhật Bản gồm Sushi, cơm bì và tráng miệng theo phong thái Nhật. Người ta sẽ dễ bị gợi nhớ lại khi một sự kiện gì đó trong quá khứ hiện trở về, nên hôm đó tôi đã phóng bút viết tặng bằng chữ Hán Nhật như: Đa Phúc, Đa Lộc, Đa Thọ, Đa Tài để tặng cho chủ nhà hàng và thầm cầu nguyện cho cửa hàng nầy luôn buôn may bán đắc.

 

Chiều tối hôm ngày 22/2/2020, phái đoàn chúng tôi đã đến thành phố điện ảnh Karlovy Vary(Karlsbad) vốn khá nổi tiếng tại xứ cách mạng mùa Xuân nầy. Khi nói đến thành phố nầy bằng tiếng Tiệp hay cả tiếng Đức, mọi người không ai là không biết. Trước biên giới giữa Đức và Tiệp có một địa phương được gọi là Schwarzenberg(Núi Đen) và khi đến biên giới thì thấy vô số hàng hóa áo quần do người Việt Namđiều hành phân phối. Chỉ cách có một biên giới thôi, nhưng cách sống của người Việt ở hai nước khác nhau vô cùng. Ở Đức đa phần người tỵ nạn hay những du học sinh trước đó đều được vào làm trong các hãng xưởng hay các cơ quan chính quyền. Ngược lại ở Tiệp Khắc đa phần người Việt Nam đến đây bằng lao động chân tay, nên sau cách mạng nhung của Tiệp Khắc vào năm 1989, họ đã ra kinh doanh tự túc và lập nên những cửa hàng dã chiến tạm bợ để sống qua ngày. Chỉ có thế hệ thứ hai, con cái của họ được sinh ra tại nơi đây, chúng khá thành công trong vấn đề học vấn, nên hầu như không có thanh niên nam nữ nào ở thế hệ thứ hai nầy muốn tiếp tục công việc buôn bán của  cha mẹ chúng nữa. Chỉ mới một thế hệ thôi, mà đã có nhiều thay đổi như vậy.

 

Sáng sớm ngày 23/2/2020, Thầy Trò chúng tôi sau thời Lăng Nghiêm lại lên đường hướng về Phraha để đến chùa Quan Âm, nơi Thầy Quảng Chánh Trụ Trì. Phraha tôi đã một lần đến, cách đây chừng 25 năm về trước và hôm nay là lần thứ hai. Vẫn những cánh đồng bát ngát trải dài như xưa cũ, nhưng đường sá bây giờ có phát triển hơn. Tuy xa lộ chưa được trải nhựa hết từ Karlsbad, nhưng nay mai chắc chắn xa lộ sẽ được nối liền thẳng tắp từ đó cho đến thủ đô quan trọng nầy. Nước Tiệp chỉ có độ trên dưới 10.000.000 dân, trong khi đó có đến 60.000 người Việt Nam sang đây lao động, buôn bán làm ăn và tất cả hầu như đều tập trung tại Phraha. Nơi đây có trung tâm thương mại SAPA và các chùa Vĩnh Nghiêm, Quan Âm v.v… tuy nói là chùa, nhưng trên thực tế chỉ là những căn nhà thuê tạm để chờ cơ hội phát triển lớn mạnh hơn, khi những Phật tử ở đây đã có đầy đủ điều kiện vật chất. Tại chùa Quan Âm chúng tôi đã chia sẻ pháp thoại về những ngày lễ vía Phật và Bồ Tát trong tháng hai âm lịch mỗi năm, cũng giống như tại Karlsbad chúng tôi đã nói về Thiền Phái Trúc Lâm, hay ở Finsterwalde chúng tôi trao đổi về Tiểu Tam Tai và Đại Tam Tai theo “Phật nói Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới”. Cả ba nơi nầy Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Thông Triển cũng đã chia sẻ những câu trả lời đến với Quý Phật tử hiện diện.

 

Buổi chiều ngày 23/2/2020, Phái đoàn chúng tôi được Thầy Quảng Chánh và các Phật tử địa phương dẫn thăm phố cổ Phraha, cầu Vua, xem đồng hồ cổ và chochim trời ăn v.v… đây là những kỷ niệm thật khó quên khi nhớ lại những ngày ở Tiệp Khắc lần nầy. Đồng hồ mỗi giờ có con gà trống ở bên trên lầu thò đầu ra gáy và 12 Thánh Tông Đồ chạy quanh đủ 12 lần quay của kim giờ trong vòng một phút và cứ như thế ngày đêm 24 lần và mỗi lần như vậy có cả hằng trăm, hàng ngàn người đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung tại quảng trường nhỏ hẹp nầy chỉ để xem con gà gáy mà thôi. Không biết về đêm thì như thế nào, nhưng chắc rằng dầu cho con người thức hay ngủ thì con gà trống kia vẫn ra chào khách đúng 24 lần như vậy trong một ngày, một đêm.  Chắc rằng đồng hồ nầy cũng bị sự vô thường chi phối trong nhiều thế kỷ qua; nhưng người ngồi giật giây chuông đồng hồ vẫn kiên nhẫn kéo lên nhấn xuống nhiều lần như thế trong ngày, trong tháng, trong năm cho đến khi chỉ còn những đốt xương hiện nguyên hình như thế, mà ông ta vẫn không dám lơ là về nhiệm vụ kéo giây thiều của mình. Tiếp đến phái đoàn chúng tôi đi xem cây cầu Vua, mà đa phần người Việt Nam sinh sống tại đây đều gọi là cây cầu Tình, vì ở bên cạnh cây cầu nầy, những đôi nam nữ yêu thương nhau thường hay đến đây tự khóa chiếc khóa bằng sắt vào thành cầu để chứng minh cho sự chung thủy của họ. Nó cũng giống như chiếc cầu Tình trên sông Seine tại Paris vậy. Cả hằng ngàn, hằng vạn ổ khóa đã được khóa chặt trên thành cầu nầy, nhưng không biết đã có được bao nhiêu cặp giữ lại được ổ khóa tình duyên ấy cho đến khi đầu bạc răng long và cũng không biết có bao nhiêu người đã ngựa sang đường mới? Việc nầy chỉ có người trong cuộc mới biết được, còn chúng ta là khách bàng quan, chỉ đến đây một lần rồi từ giã thành phố thơ mộng nầy, thì làm sao chứng thực được rõ ràng những lời thề non hẹn biển ấy. Gió lộng làm chúng tôi xuýt xoa thân phận của những kẻ đang qua cầu và năm nay ở Âu Châu hầu như không có nơi nào tuyết rơi, chỉ trừ trên núi cao nên những chuyến thám hiểm như vậy, quả thật còn thiếu độ lạnh của tuyết nữa, nếu có tuyết thì lúc ấy mới thật là ý vị vô cùng. Cuối cùng thì đoàn đã đến dưới mé sông để cho những con Thiên Nga, Hải Âu, Bồ Câu, Rái Cá và Vịt ăn bánh mì… chúng hôm ấy được một bữa no nê như chưa bao giờ trong mùa Đông lạnh giá mà được con người quan tâm chia sẻ với chúng về cái ăn như vậy. Những con Hải Âu đớp mồi thật giỏi, dầu cho ai đó cóliệng khúc bánh mì to hay nhỏ lên giữa không trung, chúng cũng có thể đớp một cách chính xác trước khi miếng bánh mì ấy rơi xuống dưới mặt nước.Saukhi về lại chùa Quan Âm, phái đoàn chúng tôi định sáng mai sớm lái xe trở về lại Hannover, nhưng qua sự thuyết phục của một số các Phật tử địa phương, chúng tôi không thể không đi xem nhà thờ làm bằng xương và sọ người tại Sedlec, cách Phraha chừng 60 cây số và độ chừng một tiếng đồng hồ lái xe thì đến. Thầy trò chúng tôi bàn nhau là phải nên đi, vì cơ hội đến lần nữa, chưa biết là khi nào.

 

Từ Phraha đi đường ngoằn ngoèo đến địa phương nầy cũng tốn ít nhất là 90 phút, nhưng nếu đi bằng quốc lộ thì chỉ tốn chừng 60 phút mà thôi. Trên đường đi, dọc theo các làng mạc, nơi đây cũng không khác gì xứ Đức là mấy. Nghĩa là những cánh đồng cò bay thẳng cánh, những rừng thông xanh mướt, mặc cho gió bấc hay lúc Đông sang…thỉnh thoảng mới thấy một vài ngôi nhà nhỏ thấp hiện ra, nhưng chỉ cần một thoáng mở mắt ra là thấy một thành phố cổ mang tên Sedlec. Nơi đây có vương cung Thánh Đường Maria và tòa giải tội St. Johannes. Nhà thờ nầy nằm ngay trên nghĩa địa, trong đó chứa rất nhiều bộ xương người cùng đầu lâu và những xương khác. Vương Cung Thánh Đường nầy được UNESCO công nhậndi sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Đọc qua lịch sử nơi đây thì được biết rằng nhà thờ được xây dựng từ thế kỷ thứ 12, năm 1142 (lúc ấy Việt Nam chúng ta đang là Triều Lý) và bên cạnh nhà thờ là nghĩa địa. Đến năm 1318 có nạn đói dữ dội đã có đến 30.000 người chết và được đem chôn tập thể tại nghĩa địa nầy. Đến đầu thế kỷ thứ 15 qua cuộc chiến canh cải  của Johann Hus về xã hội, Tôn Giáo và chính trị đã có 10.000 người chết cũng được chôn tại nghĩa địa nầy. Đến cuối thế kỷ thứ 15 thì được ký thác vào đây tất cả là 60.000 hài cốt. Tất cả đều nằm dưới đất của nhà thờ và nghĩa địa. Đến thế kỷ thứ 18 khi người ta sửa chữa lại ngôi Thánh Đường thì phát hiện thấy một số hài cốt lộ diện lên, vào thời gian nầy gia đình Ông Schwarzenberg là sở hữu chủ và năm 1870 Ông J. B. Santini-Aichl đã cho tu bổ lại bằng cách là cho nối kết tất cả những mảnh xương sọ, xương bả vai, xương chậu của những người đã chết v.v… trở thành một nhà thờ nhỏ nằm dưới từng trệt của Vương Cung Thánh Đường nầy.

 

Nếu ai đó sợ ma thì không nên đến chỗ nầy. Nếu đến đây vào ban đêm thì chắc còn rùng rợn hơn nữa. Bởi lẽ người chết có thể hiện về bất cứ lúc nào, nếu có sự tưởng tượng. Vì lẽ những người chết ấy chắc rằng hồn của họ sẽ không siêu thoát, dầu cho tín ngưỡng nào đi chăng nữa thì  chúng ta cũng nghĩ tương tự như vậy. Bởi họ là những người không và chưa muốn chết, nhưng vì dịch bệnh hay chiến tranh nên thân thể họ mới ra như vậy. Đến đây để chúng ta nhớ lại những nhà tù của Đức Quốc Xã giết mấy triệu dân Do Thái ở Dachaus, Berlin, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v… cũng như Pol Pot của Cao Miên hay Tết Mậu Thân năm 1968 tại Huế  do cộng sản Việt Nam thủ tiêu những người vô tội. Chúng ta chỉ biết cúi đầu để tưởng niệm và nhớ ơn họ cũng như tiếc thương cho họ có một cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế nầy. Do vậy chư Phật và chư Tổ Sư mới gọi là Vô Thường. Sự Vô thường về sống chết, già bịnh nó không đợi chờ người nào cả. Chỉ có những người còn phước báu thì còn có thể chống cự lại những nỗi khổ đau nầy để tiếp tục sống và trả nghiệp của mình; còn những người được gọi là xấu số đó, biết đâu trong đống xương cốt kia cũng là của chính mình đã qua thời gian năm tháng đi đầu thai rồi trở lại mà mình không nghe, không biết đấy thôi. Nếu ai đó muốn rõ, hãy đọc kinh Báo Ân Phụ Mẫu thì sẽ thấy tại sao Đức Phật lại đi lạy một đống xương khô. Vì Ngài cho rằng trong đó có cả Ông Bà Cha Mẹ của mình và đôi khi cũng chính là xương của mình trong bao đời xa xưa còn sót lại đó nữa. Cho nên sự vô thường nầy nó không luận là ai cả, trên từ các bậc Quân vương, Hoàng hậu, dưới cho đến những người khố rách áo ôm v.v… tất cả đều phải chết khi chúng ta đã có sự sinh ra.

 

Sự mất mát qua hình hài thể xác đó, Tổ Quy Sơn nhắm vào bốn  chữ “sớm còn, tối mất” là như thế. Chỉ trong một sát na, một hơi thở mà thôi. Khi hít vào mà không thở ra thì đó gọi là chết. Cuộc sống của chúng ta sẽ sang trang. Hỏi là bao giờ? Thì nào ai có thể trả lời được. Bởi vì mới sáng đó thì còn, nhưng tối đến lại mất. Đúng là một sát na chứ còn gì nữa. Đoạn sau của câu văn Cảnh Sách còn hay hơn nữa. Ngài đã ví dụ rằng: “Nó giống như sương của mùa Xuân, móc ban mai; chốc lát liền không, như cây bên bờ vực, như những giây leo mọc trên vách giếng, làm sao có thể lâu bền được?” Nếu ai đó sống lạc quan mà nghe đến đoạn văn nầy thì bảo rằng tại sao chư Tổ Sư lại bi quan như vậy? Đây đúng là mặt thật của pháp vô thường mà mấy ai có thể thẩm thấu được. Nếu có, đó chỉ là của người khác chứ không phải của mình. Cho hay sanh tửđại sự nhân duyên. Nhân duyên ấy tùy thời gian và không gianxuất hiện. Nó có thể xảy ra trước ta như ở tại địa phương Sedlec nầy, tại Huế, tại Cam Bốt, tại Dachaus ở Đức hay tại nhiều nơi trên thế giới trong tương lai. Bởi vì ai sinh ra rồi cũng phải chết, dầu cho có sống đến hơn 100 năm ở cõi người hay nhiều ngàn năm ở cõi chư Thiên, khi phước hết, nghiệp hiện ra thì con người, chư Thiên, A Tu La v.v… cũng phải chịu chung sự Vô Thường ấy chi phối mà thôi.

 

Nhìn gương người xưa để lại trên thế gian nầy để chúng ta học những bài học luân lý đạo đức như trong quyển Mục Vụ số 383 tháng 3 năm 2020 xuất bản tại Thụy Sĩ trang 48 có viết một câu chuyện ngắn rất hay như sau: Đề tài là“Suy ngẫm về giá trị con người. “ Nhà toán học Ả Rập vĩ đại Al Khawarizmi khi được hỏi về giá trị của con người, đã trả lời:

. Nền tảng con ngườiđạo đức, nếu có Đạo Đức, thì giá trị của bạn là 1.

. Nếu cũng thông minh, thêm một số 0 và giá trị của bạn sẽ là 10.

. Nếu cũng giàu có, thêm một số 0 nữa và giá trị của bạn sẽ là 100.

. Nếu trên tất cả, bạn lại còn xinh đẹp, lại thêm một số 0 và giá trị tổng thể sẽ là 1000.

. Nhưng nếu bạn bị mất số 1, tương ứng với mất đạo đức, bạn sẽ mất tất cả giá trịvà giá trị của bạn chỉ còn là số 0.

 

Đọc qua đoạn nầy tôi thấy rất hay dầu cho sự sưu tầm ấy được đăng trên báo Mục Vụ của Katholische Vietnamesischen-Mission ở Thụy Sĩ mà lâu nay Linh Mục Giuse Phạm Minh Văn đã gửi biếu tôi hằng tháng và tôi đã đọc từ đầu chí cuối, ngoại trừ phần giáo lý và chắc rằng đây là câu chuyện của người Hồi Giáo chứ không phải của những người theo tôn giáo khác, nhưng dẫu cho tôn giáo nào đi chăng nữa thì ngày hôm nay ở thế kỷ thứ 20, 21 nầy, chúng ta đã có những buổi gặp mặt, thảo luận về đa tôn giáo tại quê hương nơi chúng ta đang sống thì tôi hay ví dụ rằng: “Nó cũng giống như trong một vườn hoa, nếu chúng ta chỉ có một loài hoa nở thì chắc rằng sẽ không đẹp bằng trong đó có nhiều bông hoa khác tươi thắm như Thược Dược, Cẩm Chướng, hoa Sen v.v… khoethêm sắc thắm khi nở hoa, thì vườn hoa ấy sẽ được nhiều người quan tâm và đến để thưởng ngoạn giá trị tâm linh cho mỗi người. Trong đó có giá trị đạo đứccon người không thể nào bỏ ra ngoài tai được.

 

Viết xong vào lúc 12 giờ trưa ngày 28 tháng 2 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc để kỷ niệm chuyến đi Đông Đức và Tiệp Khắc trong thời gian vừa qua.

Sửa lỗi đánh máy: Phật Tử Thanh Phi

 
HT Nhu Dien 3HT Nhu Dien 4HT Nhu Dien 2HT Nhu Dien 1

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9306)
Con ngườisinh lão bệnh tử, đó là quy luật vĩnh hằng; cũng như trái đất có thành trụ hoại không.
(Xem: 10790)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả.
(Xem: 10288)
Khi tập ngồi thiền, ban đầu cần phải sổ tức (đếm hơi thở). Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm…
(Xem: 9842)
Chúng ta là người tu thiền, trước tiên phải hiểu thiền là gì một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.
(Xem: 11239)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai?
(Xem: 18836)
Trăm năm trong cõi người ta tuy có tới ba vạn sáu ngàn ngày nhưng thật là ngắn ngủi. Càng ngắn ngủi hơn vì mấy ai sống tới trăm năm.
(Xem: 9677)
Được làm người là một phúc duyên to lớn như vậy nên Đức Phật khuyên nhắc mọi người cần phải được trân trọng và vận dụng cái phúc duyên may mắn ấy để tu tập
(Xem: 8908)
Kế thừa gia tài Chánh pháp của Phật và thầy tổ để ứng dụng tu tập, hoằng truyền giáo pháp là việc cần làm.
(Xem: 9476)
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu!
(Xem: 9005)
Không tranh giành, tranh cãi, tranh luận, tranh chấp, tranh chiến, tranh đoạt, tranh đua; không tranh danh, tranh lợi, tranh tài, tranh công, tranh thế, tranh quyền…
(Xem: 9314)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?”
(Xem: 8995)
Người xưa nói: “Cảnh cùng khốn phải chăng là trường thí nghiệm về nhân cách con người? Phải chăng, cùng khốn hay không cùng khốn là do hoàn cảnh.
(Xem: 9719)
Giáo lý nhà Phật nói rằng nếu ngôi nhà của tôi đẹp đẽ, ấm cúng, nhiều năng lượng, chắc chắn tôi sẽ khỏe mạnh và có bình an, nhất định tôi hạnh phúcmãn nguyện.
(Xem: 10484)
Nếu chúng ta suy ngẫm về cái chết từ trong tim ta, điều nầy có thể mang lại cho chúng ta một cái nhìn làm phong phú thêm cho cuộc sống, và cho các mối quan hệ...
(Xem: 9376)
Kinh Hoa Nghiêm chỉ dạy về pháp giới vô ngại, cho nên, ngoài những pháp quán có trong những kinh khác, đặc trưng của kinh Hoa Nghiêm là nói về ba pháp quán vô ngại.
(Xem: 9941)
Không có tự ngã nào khác hơn là phức hợp của tâm thứcthân thể bởi vì Tách rời khỏi phức hợp tâm-thân, khái niệm của nó không tồn tại.
(Xem: 10361)
Phật pháp đồi với chúng ta là một kho báu vô tận , cung cấp những chân giá trị để hướng dẫn con người có một cuộc sống tốt đẹp và hiền thiện cho chính mình .
(Xem: 9548)
Muốn chuyển hóa căn bệnh sân hận, ta phải thực tập hạnh kham nhẫn, nghĩa là nhịn chịu những điều không vừa ý, trái lòng như...
(Xem: 10883)
Cơ thể chúng ta biến đổi. Nói chung, ngay cả tinh thần hay thiền định cũng không cản nổi việc biến đổi.
(Xem: 10273)
Thế tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta .
(Xem: 9449)
nhân quả nghiệp báo giúp cho con ngườitinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm và tránh xa nhân xấu ác.
(Xem: 10660)
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này.
(Xem: 12737)
Một Phật tử khôn khéo là biết học tập những gì nên học tập, không làm theo những điều chưa tốt chưa hay. Cứ theo Phật theo Pháp hành trì, vững chải mà tiến lên.
(Xem: 10377)
Có những thứ bạn nghĩ mình muốn, nhưng có thể là những thứ bạn không cần. Vì bản chất tham lam nên đôi khi mình thèm muốn rất nhiều thứ mới thỏa mãn được bản ngã của mình.
(Xem: 10264)
Tất cả cũng tàn phai Chỉ tình thương ở lại Những gì trao hôm nay Sẽ theo nhau mãi mãi.
(Xem: 13464)
Hàng người dài bất tận, im lặng, chăm chú nhìn vào ngọn nến cầm trên tay và theo dõi từng bước chân, đi tới, đi tới mãi…, dưới bầu trời đêm vắng lặng...
(Xem: 10833)
Nghĩ đến các cảnh tượng khổ đau mà chúng sinh đang phải gánh chịu là một phương pháp giúp mình thiền định về lòng từ bi.
(Xem: 10125)
Khi tâm tư lạc lõng Hãy quay lại chính mình Nương tựa vào hơi thở Chốn nghỉ ngơi an bình
(Xem: 9117)
Tôi nói đến việc đạt đến đời sống hạnh phúc như thế nào trong phạm vi thế tục. Tôi thật vui mừng có cơ hội để nói chuyện với nhiều người ở đây.
(Xem: 10267)
Tu là nghệ thuật giúp mình chuyển khổ đau thành hạnh phúc, khi hạnh phúc trở thành khổ đau thì mình có thể chuyển nó thành hạnh phúc trở lại.
(Xem: 10665)
Phật ở khắp nơi. Trên chùa có Phật, nhà ta cũng có Phật. Trong trái tim của mỗi người con đều có Phật. ta cứ làm theo lời phật dạy sẽ thành con nhà Phật,
(Xem: 18040)
Trong đời ác năm trược, con nguyện xin vào trước; Nếu có một chúng sanh nào chưa thành Phật; Thì con sẽ không vào Niết Bàn.
(Xem: 10967)
Cũng giống như bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc sống, điều quan trọng không phải là bạn giàu, hoặc nghèo, bạn khỏe mạnh, hoặc ốm đau,,,
(Xem: 10859)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên” là gì.
(Xem: 10920)
Thế Tôn dạy người tu “chuyên cần niệm Chết”, vì chết là một sự thật, ai cũng đang và sẽ chết!
(Xem: 11858)
Có bao nhiêu người trong chúng ta, khi gặp chuyện gì xảy ra không như ý muốn, thì điều đầu tiên nhất, là kiếm cớ đổ tội cho người khác, cho hoàn cảnh
(Xem: 12379)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam.
(Xem: 17932)
Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm.
(Xem: 11953)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng.
(Xem: 10010)
Đạo Pháp (Dhamma) cũng tương tự với ngành Y Khoa. Bạn có thể nhận thấy điều đó qua cách giảng dạy của Đức Phật.
(Xem: 9573)
Về ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi chúng ta bắt chước thì nó không còn là tùy duyên nữa.
(Xem: 14751)
Tùy duyên bất biến nghĩa là tùy theo cơ duyên mà duyên với ngàn sai vạn biệt, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi.
(Xem: 9673)
Đạo Phật đặc biệt hướng dẫn hành giả phải giác ngộ, không nên tin một cách mù quáng. Thông hiểu lời Phật dạy, áp dụng trong cuộc sống đạt được lợi lạc, đó là biết tu.
(Xem: 8812)
Trong đạo Phật ta phải biết dứt ác, làm lành bằng cách sửa saichuyển hoá những tâm niệm tham lam, ích kỷ, oán hờn, nóng giận, ngu si, tối tăm, ganh ghét, tật đố thành vô lượng trí tuệtừ bi.
(Xem: 9017)
Dù có gặp phải các khó khăn to lớn đến đâu, thì cũng không nên thối chí, không được tránh né, mà phải phát huy sức mạnh của tâm thức mình.
(Xem: 8971)
Hiến tặng bộ phận cơ thể là một sự thực hành rất quan trọng của Phật Pháp.
(Xem: 8082)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 11907)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10271)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8765)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant