Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

04 Tháng Năm 202007:57(Xem: 5428)
Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn 

Thích Vân Phong

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

 

Đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hơn 20 thế kỷ, đã cùng với dân tộc phấn đấu giành quyền cho một nước Việt Nam tự chủ, độc lập; đã gây dựng nên một nếp sống "dân phong quốc tục" đẹp, làm vẻ vang cho nòi giống Việt. 

Hàng năm, cứ mỗi độ Hè về là mùa sen nở khoe sắc màu, hương tỏa khắp muôn phương như hương đức hạnh của bậc Đại Giác ngược gió khắp tung bay. Hình ảnh thanh lương đó gợi nhớ trong lòng người con Phật những trang huyền sử...

Hôm ấy, bên hồ sen, sau khi Phật xả thiền, Ngài nhìn xuống hồ, thấy hoa sen nở tươi đẹp vượt khỏi bùn nhơ lên mặt nước, quang hợp ánh sáng mặt trời và tỏa ngát hương tô điểm cho đời:

“Trong đầm đẹp gì bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng,
Nhụy vàng bông trắng lá xanh;
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Cũng vậy, có  những chúng sinh bị vô minh phiền não che lấp tâm tính, có những chúng sinh vượt thoát khỏi vô minh phiền não, căn tính trở nên thanh tịnh, nếu gặp được Phật pháp thì sẽ viễn ly phiền não nghiệp chướng, hoa Giác ngộ sẽ trổ quả ngay đời này.

Hoa sen tươi đẹp, hương thơm thanh khiếtmọi người ưa thích khen ngợi, gốc từ bùn nhơ. Đây là một lẽ thật hết sức rõ ràng. Cuộc đời Thái tử Sĩ Đạt Ta rất gần với cuộc đời của mọi người chúng ta. Ngài là một con người bằng xương bằng thịt ở trong cõi đời này chứ không phải là bậc siêu nhân từ cõi nào đến. Ngài thị hiện trong chốn dục lạc, rồi từ dục lạc Ngài thức tỉnh đi tu.

Cách đây 2643 năm về trước Bồ tát Hộ Minh giáng trần, đem ánh sáng Từ bi Trí tuệ đến trần gian Ta bà này đã cất bước trên bảy đóa sen vàng:

“Bảy đóa  sen vàng nâng gót ngọc
Ba ngìn thế giới lễ Như Lai.”

Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc là một thông điệp vĩ đại về tiến trình thành tựu Vô thượng giác của đức Thế Tôn và tất cả chúng ta, những người con Phật.

Ngài thị hiện đản sinh, bước đi trên bảy đóa sen, ngước nhìn sáu phương, nơi bước cuối cùng thì Ngài dừng lại tuyên bố, xác quyết sự thành tựu Vô thượng giác. Vào đời với bảy bước chân từ bi, trí tuệ, an lạc, vô nhiễm, chẳng dính chút bụi trần là một định pháp mà ba đời mười phương chư Phật đã đi qua, Đức Thế Tôn cũng đã đi qua và những người con Phật sẽ phải đi qua để đạt đến Giác ngộ.

“Gởi em mỗi mùa sen nở  
Phật Đà thị hiện độ sinh   
Chỉ ra con đường hạnh phúc   
Truyền trao thông điệp hoà bình.”
(Tâm Chơn) 

Theo kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh-phẩm Thụy Ứng, Bồ Tát đản sinh, bước thứ nhất; nhìn về phương Đông, vì chúng sinh mà làm Bậc dẫn đường tối thượng. Phương Đông, nơi phát xuất bình minh Tuệ giác. Chúng sinh từ nơi tăm tối của dục vọng, vô minh, muốn cất bước chân đầu tiên vào đạo lộ Giải thoát phải nương theo Tuệ giác, tiếp nhận ánh sáng Tam bảo để hoàn thiện nhân cách (Thọ trì Tam Quy - Ngũ Giới). Muốn vậy, phải kiện toàn đạo đức, tri thức thông qua học hỏi, suy nghiệm và thực hành Chánh pháp. Trước khi trở thành thánh nhân, phải nỗ lực để sống trọn nhân cách một con người. Do vậy, tu tập Nhân thừa chính là bước chân đầu tiên. Bước chân nầy phải đặt trên hoa sen mới đúng nghĩa và trọn vẹn.

Cất bước thứ hai, Ngài nhìn về phương Nam thanh lương, vì chúng sinh làm ruộng phước mát mẻ. Thế Tôn đã vì chúng sinh nguyện làm ruộng phước mầu mỡ để cho mọi người gieo trồng phước đức. Trong các ruộng phúc thì Tam bảo là ruộng phúc tốt nhất cho hạt giống Từ bi, Trí tuệ, và Giải thoát đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, khi đã vững trong địa vị Nhân thừa, người con Phật tiếp tục nương tựa Tam bảo để chuyển hóa nghiệp lực, tu tạo phúc điền, trang nghiêm phúc báo cho tự thân.

Phật là Đấng Phúc Trí nhị nghiêm, học theo Phật thì việc thực hành chuyển hóa nghiệp ác của thân, miệng, ý (Thân: sát sinh, trộm cướp, tà dâm. Miệng: Nói dối, nói lưỡi đôi chìu, nói lời hung ác. nói thêu dệt. Ý: Tham lam, giận dữ, si mê) thành nghiệp thiện nhằm vun bồi phúc đức là điều tối cần. Đây chính là giai đoạn tu tập của hàng Thiên thừa, dứt ác hành thiện, chuyển hóa mười nghiệp ác thành mười nghiệp lành. Bước chân thứ hai này là sự kế tục của bước chân thứ nhất, từ nền tảng quy y Tam bảo, thọ trì năm giới tiến lên tu mười nghiệp thiện. 
   
Đến đây, người con Phật đã đi được chặng đường "không làm các điều ác, chỉ làm các việc lành". Dù đã chuyển hóa nghiệp ác nhưng muốn đoạn trừ hoàn toàn cội rễ phiền não, vô minh thì người con Phật cần phải nỗ lực mạnh mẽ hơn. Vì thế, Ngài cất bước thứ ba; nhìn về hướng Tây chỉ cho chúng sinh thấy rằng đây là thân cuối cùng, chấm dứt sự sinh tử

Từ chuyển hóa nghiệp hướng đến chấm dứt nghiệp, thoát ly sinh tử là nội dung tu tập của bước chân thứ ba. Phương Tây là phương mặt trời lặn, hướng về sự vắng lặng, thanh tịnh, tịch diệt. Tâm phải nương vào thiền định, tập trung về một mối, định tĩnh, tịch tịnh hoàn toàn. Đây là bước chân của hàng Thanh văn thừa, những bậc Thánh hướng đến thoát ly sinh tử. Nỗ lực thiền định, phối hợp nhịp nhàng giữa Chỉ và Quán, hướng tâm đến bất động, phát huy Thiền quán duyên sinh để thân chứng vô ngã tính của thân tâmvạn pháp, thành tựu Tam vô lậu học, phá tan vô minh, chứng đắc A la hán.

Bước chân thứ tư là mở đầu cho hạnh nguyện độ tha. Ngài nhìn về phương Bắc lạnh lẽo, tối tăm, vì chúng sinh mà khai mở Tuệ giác tối thượng. Khi đã giải thoát sinh tử, vì chúng sinh khổ đau nên Bồ-tát không an trú Niết-bàn mà phát khởi Bi nguyện nhập thế. Bồ tát đi vào cuộc đời tăm tối vô minh, mịt mờ tham ái nhưng chẳng dính chút bụi trần, tự tại vững bước thong dong trên hoa sen bất nhiễm. Vận dụng vô lượng phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh, trong đó quan trọng nhất là chỉ rõ rằng, con người có khả năng Giác ngộ ngay trong cuộc đời này. 

Mỗi chúng ta ai cũng có Phật tính và đầy đủ khả năng thành Phật. Chúng sinhvô minh sâu dày nên không đủ căn lành tin vào tâm Giác ngộ vốn sẵn có nơi mình. Vì thế, thị hiện sự chứng đắc Tuệ giác Vô thượng trong đời sống ô trược là một minh chứng hùng hồn nhất cho khả tính Giác ngộ. Dẫu rằng đạt đến Giác ngộ không phải là điều có thể thành tựu trong một sớm một chiều mà có thể trải qua Ba a tăng kỳ kiếp mới đến ngày công viên quả mãn. Song việc đánh thức niềm tự tín Giải thoát để chúng sinh tự mình thắp đuốc lên mà đi, để thấy rằng Như Lai là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành là Bi nguyện vĩ đại của Bậc Giác ngộ.

Tiếp tục dấn thân làm lợi ích cho hữu tình, nơi bước chân thứ năm, bước chân hoa sen trong biển lửa, nhìn xuống phương dưới vì chúng sinh hàng phục chướng ma. Phương dưới vốn thấp kém, quả báo của những chúng sinh chịu nhiều đau khổ, nên cang cường, hung dữ, ác độc cố chấp, ti tiện, hẹp hòi... Vì thế, ma chướng rất cần được soi sángthương yêu, tưới tẩm cam lộ. Nguyện hàng phục chúng ma nhưng thực ra chỉ cần đem Trí tuệTừ bi (tình thương) đến cho họ mà thôi.

Sự khổ đau rất đa dạng, trùng điệp. Khổ đau làm cho tâm hồn tăm tối và thân phận càng bi đát hơn. Vì thế, càng đau khổ đến tột cùng thì oán thù càng chồng chất và sự đày đọa thêm chập chùng, vô tận. Muốn hàng ma phải đi vào những nơi đau khổ, tối tăm, đầy hiểm nạn và nhờ đó Tuệ giác, bản lĩnh, công hạnh của Bồ tát mới thậm thâm. Bồ tát Quán Âm tầm thinh cứu khổ, nơi nào có tiếng kêu than bất hạnh thì Ngài tìm đến. Bồ tát Địa Tạng nguyện khi nào chúng sinh không còn bị đày đọa trong địa ngục thì Ngài mới chứng nhập Vô thượng Bồ đề.

Bước chân thứ sáu, nhìn lên phương trên vì chúng sinh làm chỗ nương tựa cho trời người. Khi đã dẹp yên ma oán, độ được những thành phần thấp kém khó độ thì hướng về những đối tượng cao hơn, có trí thức, hiểu biết và nhiều phước báo. Trời người là những chúng sinh có phước, ít đau khổ hơn so với Tam đồ, ác đạo (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Song, nếu không tích lũy và phát triển phước báo của mình bằng tu tập theo chánh pháp thì phước đức sẽ hết và sẽ bị đọa lạc như thường. Mặt khác, dẫu có phước báo nhưng vẫn bị vô minh chi phối, tham ái ràng buộc, phiền não hoành hành.     
Vì thế, trời người cần nương tựa Tam bảo, tiếp nhận ánh sáng Giác ngộ, phát huy Tuệ giác Vô thượng để “an trú tâm và hàng phục tâm”, hướng về giải thoát tối hậu. Trong sáu cõi thì trời, người có nhiều cơ hội thực hành Chánh pháp và thăng hoa tâm linh hơn các loài khác. Nương tựa Tam bảo, trời người tìm ra con đường nương tựa chính mình để tư mình thấp đuốc lên mà đi.

Khi đã tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì đó là thời điểm công viên quả mãn, thành Phật. Vì thế, bước chân thứ bảy là bước chân cuối cùng, công hạnh tự lợilợi tha đã tròn đầy, Ngài tuyên bố: “Ta là bậc đã tôn quý và tối thắng trong thế gian. Đối với chúng sinh trong ba cõi, bất kỳ ai tu tập đạt đến viên mãn tự lợilợi tha là Bậc tôn quý nhất, thù thắng nhất”. “Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A la hán, Chánh đẳng giác.” (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Một người).

Thế Tôn đã đi bảy bước trên đóa sen để thành Phật. Chúng ta, những người con Phật hiện đang đi và sẽ đi theo bảy bước chân ấy. Nguyện theo dấu chân xưa, thực hành tự độ và độ tha cho đến ngày công viên quả mãn.

 Mùa Phật đản về, hình ảnh “bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc” có mặt khắp nơi, gợi lên cho mỗi người con Phật niềm tự tín giác ngộ của tự thân. Chúng ta cũng đang bước chân trên hoa sen bằng sự nỗ lực tu tập, ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày để từng bước xây dựng niềm tự tin an lạc hạnh phúc, thành tựu giải thoát, cho chính mình và mọi người.

Sự kiện tuần lễ cúng dường Phật đản này nhằm kết nối truyền thống văn hóa tâm linh từ khi bắt đầu Kinh thành mang tên Thăng Long nghìn năm văn hiến:

“Dân tộc bốn ngìn năm văn hiến, khi thăng khi trầm vẫn tiếp bước của tiền nhân;

Đạo pháp hai ngìn năm lịch sử, lúc thịnh lúc suy luôn soi đường cho hậu thế.”

“Đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hơn 20 thế kỷ, đã cùng với dân tộc phấn đấu giành quyền cho một nước Việt Nam tự chủ, độc lập; đã gây dựng nên một nếp sống 'dân phong quốc tục' đẹp,  làm vẻ vang cho nòi giống Việt. Xuyên qua những đóng góp to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước của Đạo Phật Việt, kể từ các Vương triều: Tiền và Hậu Lý Nam Đế (542 - 603) mở đầu nền tự chủ cho nước nhà; đến nhà Đinh (968 - 980) và Tiền Lê (980 - 1009), đạo Phật mặc nhiên được triều đình công nhận coi là quốc giáo của toàn dân; sang nhà Lý (1010 - 1225) và tiếp theo nhà Trần (1225 - 1400), đạo Phật lại càng được phát triển mạnh trong đời sống xã hội. Đồng thời mở mang trên khắp mặt sinh hoạt quốc gia, đem an vui hạnh phúc đến với toàn dân. Từ bi thương yêu tràn ngập thì đồng thời nền văn hóa Đại Việt cũng vươn lên tuyệt đỉnh vinh quang !”

(Trích Đạo Phật và dòng sử Việt - Thích Đức Nhuận)

“Phật đạo vô thượng chí tôn.
Quốc gia hữu vĩnh càn khôn vững bền.”

"Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt hơn hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly. Tư tưởng đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc. Bởi sự liên hệ mật thiết này nên người dân Việt coi đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Đạo Phật bị phá hoại thì tinh thần dân tộc cũng lung lay. Vì thế, để bảo vệ tinh thần dân tộc, gìn giữ tín ngưỡng truyền thống của tổ tiên, người Việt Nam tự thấy có bổn phận bảo vệ đạo Phật một cách hồn nhiên".

(Trích Đạo Phật trong mạch sống dân tộc - Thích Thanh Từ)

Quả thật!
“Mấy ngàn năm son sắt   
Trong dòng chảy Đạo-Đời
Việt Nam đất nước tôi
Đượm nhuần trang sử Phật.”
(Tâm Chơn)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2358)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1954)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2069)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2257)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2530)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2559)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2095)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2546)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1884)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1988)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2268)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2791)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1710)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1618)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1814)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1649)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2222)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2390)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2093)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1880)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1976)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1712)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2709)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1860)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2190)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2156)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2502)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1817)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2004)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1871)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2046)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2623)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3691)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2295)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2295)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1680)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1988)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2322)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2323)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2163)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3126)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2145)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2538)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2053)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1986)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2193)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2497)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2061)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2457)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant