Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc sách "Chớ Quên Mình Là Nước" của Văn Công Tuấn

08 Tháng Tám 202009:29(Xem: 3471)
Đọc sách "Chớ Quên Mình Là Nước" của Văn Công Tuấn

ĐỌC SÁCH

 CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC 

CỦA VĂN CÔNG TUẤN

 

Trần Văn Chánh

 

 

Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.

Nói chung người Việt Nam chúng ta mảng lo chạy theo cuộc sống thực tế trước mắt hàng ngày nên  vẫn còn khá hờ hững trước các vấn đề môi trường, vì “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, trong khi tình trạng khủng hoảng môi trường giờ đây cũng đã trở thành một thực tế không thể ngó lơ, và đại dịch CoViD-19  có lẽ phần nào nhắc nhở sự tỉnh thức, bởi sự xuất hiện virut Corona (SARS-Co V-2) cũng không ra ngoài lý do môi trường, nhưng người ta có vẻ sợ hơn những thứ khác vì chúng có thể đe dọa trực tiếp và tức khắc mạng sống con người, so với hiện tượng biến đổi khí hậu tuy cũng nguy hiểm nhưng tác động chậm hơn. Cuốn Chớ quên mình là nước xuất bản trong lúc này tại Việt Nam vì thế có vẻ như rất thích hợp, góp thêm phần cảnh giác/ báo động trước một vấn đề vô cùng hệ trọng đối với con người thời hiện đại.

Trong lời tựa cho lần tái bản sách này tại Việt Nam (NXB Hồng Đức, Quý III-2020), tác giả (một kỹ sư chuyên viên kỹ thuật y khoa định cư làm việc ở Đức) cũng khơi mào câu chuyện bằng thời sự CoViD-19 , cho biết “khi đi làm việc tại khu cấp cứu cách ly dành cho bệnh nhân CoViD-19  tại Uniklinikum UKSH Kiel, tôi càng có dịp suy nghĩ thêm về mối tương quan giữa con người và thiên nhiên… Người ta biết rằng, khi môi trường tự nhiên bị hủy hoại, khi trật tự vũ trụ bị đảo lộn thì thiên nhiên phải tự ra tay thiết lập trở lại sự cân bằng. Kết quả có thể là những thiên tai khủng khiếp như hạn hán, lũ lụt, sóng thần, động đất… hoặc những cơn đại dịch chết người hàng loạt… Trong khi đó, chúng ta không ngừng gây ô nhiễm môi trường, chúng ta phung phí nước bất kể nhiều vùng trên trái đất đang ngày càng khô cằn, đồng loại ta đang chết khát…” (tr. 8-9).

Ở nước ta từ nhiều năm nay, nạn thiếu nước, ô nhiễm nguồn nước, xâm nhập mặn… đã ngày càng trở nên rõ rệt và phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và hoạt động sản xuất của người dân. Thiếu nước nghĩ xa hơn cũng là thiếu lương thực, có thể gây nên nạn đói trong tương lai khi dân số ngày một gia tăng vì nước chiếm một tỉ lệ quan trọng tuyệt đối trong sản xuất nông nghiệp.

Trong bài viết thứ hai, “Buồn ơi - gặm nhắm thêm chi”, tác giả nêu lên nguy cơ biến đổi đổi khí hậu (làm nước biển dâng…), giới thiệu sơ qua phong trào kêu gọi hãy cứu lấy môi trường của lớp trẻ toàn thế giới từ tháng 8.2018, mà có lúc chính tác giả, tuy thuộc lớp già, cũng đã tham gia biểu tình chung với 7.000 học sinh và sinh viên người Đức với tấm biểu ngữ khôi hài mà cười… ra nước mắt: “Hãy chuẩn bị mặc quần tắm vào đi, biển ngập tràn khắp rồi!” (tr. 27)  

Theo tác giả, nước là trung tâm của mọi nguyên tố (element) trên trái đất. Không có nước là không có sự sống. Cho đến nay không có bất cứ vật thể gì tồn tại được nếu thiếu nước. “Nước hiện diện trong mọi vật thể quanh ta mà ta thực sự ít quan tâm đến nó. Nước là yếu tố đầu tiên cho sự sống… Để nhấn mạnh ý nghĩa này, Liên Hiệp Quốc từ năm 2003 đã chọn ngày 22 tháng 3 là Ngày Nước Thế Giới” (tr. 53). Trong bài  “Khô khan chuyện Nước”, tác giả tái khẳng định: “Không ai chối cãi được, thiếu nước là vấn nạn lớn nhất của chúng ta hiện nay” (tr. 57). Tiếp theo, nêu lên yêu cầu bức thiết phải tiết kiệm nước tối đa trong mỗi hành vi sinh hoạt, và đề nghị nêu gương theo bài học thoát hạn của Do Thái, đề cao một nền văn hóa tôn trọng nước: “Nói tóm lại, cái viễn cảnh thiếu nước ngọt để sử dụng của chúng ta trên địa cầu này là tất yếu, chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng qua kinh nghiệm Do Thái, ta thấy cũng có thể có một sinh lộ” (tr. 68). 

Bài “Bà Ny-lông, Ông Mủ nhựa” cảnh báo nguy cơ rác thải bao bì bằng nhựa làm ô nhiễm nguồn nước từ sông ra tới biển: “Hiện nay mỗi năm có khoảng 8 tấn rác mủ nhựa ny-lông đổ vào biển”. Rồi cá voi (thuộc lớp Thú) cũng bị tiêu diệt dần, các loài chim trời cá nước khác cũng vậy (xem bài “Dưới biển cá thôi bơi, trên trời chim hết lượn”, (tr. 142). Một nguy cơ cho toàn thể nhân loại, “Cá tuyệt chủng thì ngư dân cũng tuyệt chủng. Tôi và anh chị rồi cũng sẽ đi vào đường tuyệt chủng khi cây cỏ và sinh vật chung quanh chúng ta tuyệt chủng” (tr. 150).

Số bài còn lại hầu hết là những tản mạn việc đời, biểu lộ những nỗi suy tư trăn trở, thường cũng gắn liền với yếu tố “nước”, phong cách viết thong thả, đầy tính văn nghệ. Bài nào cũng có dẫn thơ, ca dao, danh ngôn của các bậc hiền triết, và nhất là điển tích, ngụ ngôn lấy từ trong các kinh sách Phật giáo, nên dễ đọc, đọc mà không cảm thấy quá nặng nề, lại thêm được bồi bổ nhiều loại kiến thức liên quan tôn giáo, triết học...     

            Tác giả chọn “nước” làm đầu đề triển khai cho toàn tác phẩm không chỉ vì lý do đơn thuần khoa học, mà còn vì những cảm thức cá nhân liên quan đến cái chất liệu quan trọng này đã có trong ông từ buổi ấu thơ sống trong môi trường thiên nhiên lành mạnh đầy kỷ niệm đẹp của quê hương mến yêu, từ khi nước chưa bị thiếu và chim, cá chưa bị chết do môi trường bị hủy hoại như bây giờ. Cho nên cuốn sách được cấu trúc không hoàn toàn như một công trình biên khảo khoa học khô khan, mà lồng vào 16 bài viết ngắn dài, tác giả đưa ra những lời tâm sự, “cũng chỉ vì một ước mong duy nhất” là để nhắc nhở mọi người cần biết trân quý trái đất này của chúng ta: “Chúng ta cũng nên biết giữ gìn những giọt nước của đất, vốn phủ đầy hai phần ba địa cầu. Đất này, nước này là những dấu tích còn lưu lại của đời trước, là nơi an nghỉ của tổ tiên. Đất và nước không thể là sở hữu của riêng bất cứ một ai. Xin đừng nói ngây thơ là ai đó vì có tên trong hồ sơ bất động sản nên là kẻ sở hữu. Nếu có chăng những kẻ sở hữu thì kẻ ấy chính là con cháu chúng ta ở các thế hệ sau… Phải biết chăm sóc đất, phải tử tế với nước…” (trích “Lời thưa”, tr.20-21).

Ở đây, khi nói “nước” đi liền với “đất”, nhiều chỗ trong sách, tôi nghi rằng tác giả Văn Công Tuấn có ý dùng thuật chơi chữ một cách tế nhị, với hàm ý yêu nước, bảo vệ nguồn nước cũng là yêu quê hương đất nước, và phải ra sức bảo vệ nó. Đọc tới bài “Cụ Phan gọi trà” (tr. 103), có trích dẫn câu thơ trong bài  “Gọi trà” của Phan Bội Châu “Trà ơi còn nước là vinh hạnh”, ta càng thấy rõ thâm ý này của tác giả, với lời bình luận: “Cụ thương nước thương nòi, nhưng bấy giờ phải lâm tình cảnh bị giam lỏng nên cụ cứ phải ‘khát nước hoài’. Nước hiểu theo đầy đủ tất cả nghĩa. Một lối chơi chữ quá tài hoa: vừa là đất nước vừa là dòng nước mà cũng là dòng đời lênh đênh của cụ. Cái nào cũng quý và cái nào cũng đang lâm nạn. Mình chỉ nhận ra khi không còn có nữa” (tr. 104). 

                                                                                                        

     31.7.2020 

 

---

Chi tiết về tác phẩm:

 

CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC 

Tạp văn - Khảo luận về nước và môi trường 

 

Tác giả: Văn Công Tuấn 

Lời tựa: Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc 

Lời bạt: Nguyễn Minh Tiến 

 

Phát hành ở Việt Nam

Nhà xuất bản Hồng Đức, Quý III-2020 (Công ty Văn hóa Hương Trang liên kết phát hành). Giá: 75.000 VNĐ

Số ISBN: 978-604-9948-47-3

 

Phát hành ở hải ngoại: mạng Amazon theo đường link rút gọn https://pgvn.org/pg_5604hw 

Giá 14,99 US$

Nhà xuất bản Liên Phật Hội (Hoa Kỳ), 2019. 

Số ISBN-13: 978-1-6875-2509-3 

Số ISBN-10: 1-6875-2509-9 

 

          

           

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18816)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19840)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14001)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17629)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15392)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21890)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25128)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18967)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15769)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20714)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17001)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20011)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30595)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23856)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant