Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quản Lý Nóng Giận Bằng Phát Triển Tâm Từ

24 Tháng Chín 202009:36(Xem: 3843)
Quản Lý Nóng Giận Bằng Phát Triển Tâm Từ
Quản Lý Nóng Giận Bằng Phát Triển Tâm Từ

Thích Quảng Tiến Nhẫn

Bày Tỏ Tình Yêu Thương Và Lòng Bi Mẫn Với Động Vật

Như chúng ta thấy, sự tức giận là sức mạnh tinh thần bất thiện dẫn con người vào những hoàn cảnh khó chịu và đau khổ khác nhau. Suy thoái xã hội, kinh tế, thể chất và tinh thần gây ra bởi sự tức giận. Xu hướng tự hủy diệt (attantapa) và hủy diệt xã hội (parantapa) được hiểu là phản ứng của cá nhân thù hận (dosa carita) đối với những thất bại của mình. Khi sự tức giận trở nên mạnh mẽ hơn, những thay đổi về thể chất đột ngột có thể được nhận ra. Những thay đổi về kiểu ngủ, sự đau đớn về thể xác và tinh thần, sự xấu xí về thể chất, sự mệt mỏilo lắng, sự cáu kỉnh, căng thẳng… Đức Phật dạy: bài viết này là thảo luận về lý thuyết và thực tiễn về phát triển từ tâm có thể được sử dụng làm chiến lược quản lý tức giận để khôi phục hòa bình trong bối cảnh toàn cầu.

Tâm lý học xã hội về sự tức giận

Bheda (bất hòa, chia rẽ, bất đồng quan điểm), virodha (chống đối, đối lậpthù hằn), viggaha (tranh chấpcãi nhau) là những thuật ngữ Pāli đã được sử dụng trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy để nhận ra các khía cạnh khác nhau của xung đột. Thay vì phân chia xung đột thành cá nhân hoặc giữa các cá nhânPhật giáo có xu hướng nhận ra nguyên nhân tâm lý xã hội học để đưa ra các phương pháp giải quyết có liên quan.

Lòng tham (lobha), hận thù (dosa) và si mê (moha) được hiểu là những ảnh hưởng tâm lý nội tại gây ra xung đột giữa các cá nhân. Khao khát khoái cảm nhục dục (kāma-tanhā), khao khát bảo tồn bản thân (bhava-tanhā) và khao khát sự hủy diệt (vibhava-tanhā) được thừa nhận trong giáo lý Phật giáo là nguồn gốc của những xung đột nội tâm. Dưới sự giận dữcá nhân không thể nhận thức chính xác mọi thứ. Đây là ảo tưởng (moha) làm cho xung đột nghiêm trọng đối với cá nhân và giữa mọi người.

Quá trình tâm lý này được ghi lại rõ ràng trong kinh Tăng chi bộ, người ấy dưới cơn giận dữ trở nên xấu xí, người ấy không thể ngủ trong sự ép buộctâm trí người ấy liên tục bị xáo trộn. Khi một người trong cơn giận dữ, người ấy không biết điều gì là đúng hay sai và không thể hiểu ngay cả những gì có lợi cho mình. Khi sự tức giận trở nên mãnh liệt nhất, người ta sẽ mất hết cảm giác phân biệt đối xử và không ngần ngại giết chết ngay cả chính mình. Đối với việc loại bỏ các động cơ vô đạo đức như vậy, tình yêu, từ bi và trí tuệ được xem như là gốc rễ đạo đức dẫn đến hạnh phúc bên trong (ajjhatta sakha) và hòa bình (sānti) cho mỗi cá nhân và xã hội. Cơ sở xã hội học về nguồn gốc của xung đột đã được xây dựng trong một số kinh điển của Phật giáo thời kỳ đầu. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống (Cakkavattisihanāda) và kinh Cứu-la-đàn-đầu (Kūtadata) thuộc Trường bộ – hai kinh này cũng xuất hiện trong kinh bộ được phát hiện được ở.

Afghanistan (Dī Afghanistanikāya) – cho thấy nghèo đói (dāliddiga) là nguyên nhân chính của việc tạo ra nhiều bạo lực xã hội và xung đột xã hội. Trong kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống đã nói rất rõ ràng vì hàng hóa không được ban cho người nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng gia tăng. Việc ăn cắp đầy rẫy gia tăng, sự lây lan của bạo lực và sự phát triển của bạo lực khiến cho sự hủy diệt của cuộc sống trở nên phổ biến. Khi có được một chương trình kinh tế được lên kế hoạch tốt nhằm mục đích giải quyết những vấn nạn ấy thì bạo lực xã hội và xung đột xã hội do nghèo đói sẽ chấm dứt, mang lại sự tiến bộ về phẩm chất của các cá nhân trong cả nước. Để có được sự quan tâm đến việc phát triển đất nước và các biện pháp dẫn dắt dân chúng có được sự tiến bộ về vật chất và tinh thần như vậy, điều cần thiết là người lãnh đạo – ở đây là nhà vua, phải có tâm lý tốt.

Một vị vua, người xử lý với tâm lý tốt như vậy, được gọi là vị vua hành xử theo vương pháp (dhammiko dhamma rājā). Trong số những phẩm chất khác nhau của vị vua hành xử theo vương pháp thì lòng yêu thương được công nhận là phẩm chất tinh thần hàng đầu.

Khát vọng tích cực về bản thân

Người thân yêu nhất đối với mình trong thế giới này là chính mình; nếu một người không hiểu rằng mình yêu bản thân nhiều như thế nào, thì rất khó để dẫn dắt ai đó đến việc phát triển từ ái. Do đó, rất rõ ràng rằng một cá nhân cố gắng làm dịu cơn giận nên nuôi dưỡng lòng tốttrước tiên, đối với chính mình. Sau đó sẽ có thể kìm nén sự tức giận đối với người khác hoặc những tình huống trái ý. Phương pháp nuôi dưỡng lòng yêu thương đối với bản thân để có thể hạnh phúc và thoát khỏi đau khổ, giữ mình khỏi sự thù hằnphiền nãolo lắng và sống hạnh phúc. Đây là nỗ lực đầu tiên lấy bản thân làm ví dụ cho việc nuôi dưỡng lòng tốt yêu thương. Trong thực tế nếu một người có thể có được khát vọng tích cực cho bản thân, người ấy cũng có xu hướng có một khát vọng tích cực đối với xã hội.

Tình yêu phổ quát

Trong chiến lược này, chúng ta không chọn bất kỳ đối tượng cụ thể nào mà phải phát triển lòng nhân ái vô hạn và vô biên cho mọi chúng sinh trong vũ trụ này. “Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh. Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn”.

(Kinh Thương yêu)

Trong bài kinh này, chúng ta được khuyến khích nên tu luyện một bức xạ có ý thức về tình yêu không phân biệt cho toàn bộ thế giới (sabbalokasmiṃ), bao gồm tất cả các hướng (uddhaṃ adho catiriyañca). Ý nghĩ về lòng tốt yêu thương nên được phát triển (mettaṃ cittaṃ bhāvayaṃ) ngày và đêm. Và trong phân tích cuối cùng, như một người mẹ yêu thương đứa con của mình, thiền giả cũng có thể nuôi dưỡng lòng nhân ái với tất cả chúng sinh trong vũ trụ này. Paṭisambhidāmagga cho thấy năm cách giải thoát tâm trí của lòng nhân ái với sự lan tỏa không xác định như chuyện có thể tất cả chúng sinh thoát khỏi sự thù hận, phiền não và lo lắng và sống hạnh phúc, tất cả những người được sinh ra đều là người.

Theo lời giải thích này, rõ ràng rất nhiều thiền giả tu luyện lòng tốt sống chủ yếu có thể thoát khỏi sự thù hận, phiền não và lo lắng trong khi người này đang thực hành mettābhāvanā. Và mặt khác, vì chiến lược này không hướng đến bất kỳ người cụ thể nào, nên thiền giả có thể dễ dàng thúc đẩy tâm trí của mình đối với lòng yêu thương.

Phản ánh về phẩm chất tốt

Khi phân tích toàn bộ chức năng tâm lý của các hành động tạo thành nghiệp, mọi người đều có thể hiểu nó là lành mạnh hay không lành mạnh và kết quả của họ là tốt hay xấu. Sự tức giận cũng được hiểu trong bối cảnh này là hiện tượng tinh thần bất thiện dẫn con người vào hoàn cảnh bất hạnh. Nhưng người ta nói ở đây là kết quả của việc vượt qua sự tức giận, bản thân có thể phát huy tiềm năng của mình lên mức tối đa hoặc là siêu thế hoặc trần tục. Theo tâm lý học Phật giáomọi người được sinh ra ở thế giới này với những hạt giống trở thành Phật.

Trong chiến lược này, thiền giả được khuyên nên tìm kiếm bất kỳ phẩm chất tốt đẹp nào để tránh xa những phẩm chất xấu của đối tượng làm mình giận. Chú ý vào bất kỳ phẩm chất tốt đẹp nào của người thù địch, vì chủ đề thiền phản ánh từ hành vi bằng lời nóithể chất hoặc tinh thần của anh ta, thiền giả được yêu cầu tu luyện lòng nhân ái. Do chiến lược này, thiền giả sẽ có thể kiểm soát ngay cả những cơn giận dữ dữ dội nhất đối với đối phương.

Tình yêu của cha mẹ

Giáo lý Phật giáo về vòng tái sinh được sử dụng ở đây như một chiến lược rất hiệu quả và có ý nghĩa để làm dịu cơn giận dữ và thúc đẩy lòng yêu thương. Trong bối cảnh tồn tại khôn lường, tất cả chúng ta đã gặp nhau như những mối quan hệ rất gần gũi. Đôi khi, những mối quan hệ đó có thể là mẹ, con trai, cha, con gái, anh trai hoặc chị gái trước đây của chúng ta. Khi một thiền giả không thể vượt qua sự tức giận của mình, sau đó người ấy được yêu cầu ghi nhớ mối quan hệ chặt chẽ này. Trong trường hợp đó, thiền giả nên nghĩ như vậy: Người này, dường như là mẹ tôi trong quá khứ đã mang thai chín tháng mười ngày và sinh tôi ra, nuôi dưỡng, bảo bọc, dành trọn tình thương cho tôi. Và người này có khi là cha tôi, người đã thức khuya dậy sớm để kiếm tiền nuôi tôi khôn lớn, dạy bảo tôi khôn lớn thành người. Và như anh trai, chị gái, con trai, con gái của tôi, người này đã giúp đỡ tôi từ nhiều kiếp trướcVì vậy, không cho phép tôi ghét anh ấy.

Lý tưởng Bồ-tát

Lý tưởng Bồ-tát được phản ánh từ những câu chuyện trong Jātaka với tư cách là một vị Bồ-tát, Ngài không cho phép thù hận gây ô nhiễm và làm hỏng tâm trí của của mình ngay cả kẻ thù đã cố gắng giết Ngài bằng cách tạo ra những cái bẫy độc ác. Ví dụ có thể được trình bày từ các truyện Jātaka như Silava (Jā i, 261) Khantivādi (Jā, iii 39) Cūladhammapāla (Jā, III, 181) Chaddanta (Jā, v, 51) Mahākapi (Jā, v, 71), Buridatta 85) Campeyya (cp, 85) Saṅkhapāka (Jā, v, 172) Mātuposaka (Jā, iv, 90).

Những câu chuyện Jātaka này đại diện cho lý tưởng để tu luyện mettā và thúc đẩy sự kiên nhẫn. Những lý tưởng này không có nghĩa là tín đồ Phật giáo nên cư xử một cách dại dột khi những kẻ thù địch và ác cảm cố gắng tiêu diệt cuộc sống của ai đó. Theo Phật giáo, một người đàn ông tức giận chiến thắng không phải bằng tức giận, mà bằng mettā. Đó là cách để chiến thắng một trận chiến khó khăn. Chiến thắng một người tức giận bằng mettā và sự kiên nhẫn là nguyên nhân thúc đẩy cả sức khỏe tinh thần. Do đó, một lần nữa nhấn mạnh rằng nếu ai đó ở trong một hoàn cảnh khó khăn nhất để chịu đựng sự tức giận, thì người ấy nên nhớ đến Đức Phật trước đây là một vị Bồ-tát, cách Ngài chinh phục những hoàn cảnh khó khăn đó bằng mettā.

Ngày nay thế giới đang đối mặt với sự khủng hoảng về đạo đức, sự không thỏa mãn về bản thân, sự nóng giận với người khác đã đẩy con người vào những hố sâu tội lỗiCon người chạy theo sự phát triển của xã hội mà đánh mất thời gian nhìn lại bản thân, để cơn nóng giận chi phối, gây hại cho bản thân và những người xung quanhngoài ra còn ảnh hưởng đến hòa bình cho xã hội. Khi phải đối mặt với những thách thức không ngừng của cuộc sống, thay vì đối phó một cách khôn ngoan, người tức giận thường có những hành vi phá hoạigây hấn bằng lời nói và hành động tiêu cực đối với bản thân và người khác.

Đức Phật đã đưa ra nhiều giải pháp để kiềm chế sự tức giận nhưng điều quan trọng nhất là mỗi người phải nhận ra được cơn nóng giận của mình.

Nói một cách khác là chánh niệm trong thời điểm hiện tại để thấy được sự tức giận đang có mặt, quan sát và tìm phương pháp đối trị nó. Nếu chúng ta thực tập lòng từ bi và lòng tốt với tất cả chúng sinh, hàng ngày, chúng ta có nhiều khả năng cảm thấy từ bi thay vì ghét hoặc tức giận. Thiền Metta khẳng định rằng không chỉ cầu cho một số chúng sinh được hạnh phúc và thoát khỏi đau khổ, mà ở đây nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều được an vui và hạnh phúc. Điều này, bao gồm cả kẻ thù của chúng ta, trong kinh Pháp cú, lời kệ số 5, Đức Phật dạy:

Với hận diệt hận thù, đời này không có được. Không hận diệt hận thù, Là định luật ngàn thu.

Tài liệu tham khảo:

1. Kinh Tăng chi bộ, Thích Minh Châu dịch
2. Kinh Thương yêu, Thích Nhất Hạnh dịch
3. Kinh Pháp cú, Thích Minh Châu dịch
4. Mental Culture in Buddhism, De Silva Lily, Karunaratna and Sons, Sri Lanka.
5. An Introduction to Buddhist Psychology, De Silva Padmal (1979), Global Recovery; The Buddhist Perspective, U.N.D.V Conference Volume (2010), Thailand.
6. Psychiatric Aspect of Jātaka Stories, Harischanra, D.V.J. (1998), Galle, Vijitayapa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20566)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18818)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18269)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19841)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14841)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12967)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13950)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14004)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17632)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15393)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14689)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14453)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21891)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20601)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25130)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14707)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18970)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25277)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15766)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15770)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20719)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17004)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20013)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31504)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36010)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23860)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26546)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant