Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Thơ Thiền Nhật-bản

03 Tháng Giêng 202119:12(Xem: 4742)
Tìm Hiểu Thơ Thiền Nhật-bản

Tìm hiểu thơ Thiền Nhật-bản

 

Hoang Phong

tho thien nhat ban

Tranh lụa Hashimoto Gaho (1835-1906)

 

            Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.

 

            Dưới một góc nhìn mở rộng hơn thì giữa thiền học Chan/T'chan của Trung quốcthiền học Zen của Nhật bản không khác biệt nhau nhiều trên phương diện căn bản, thế nhưng về mặt thực hành thì cả hai trường phái thi ca Trung quốcNhật bản đều mang nặng ảnh hưởng cá tính, văn hóa, phong tục của mỗi dân tộc. Trong bài viết ngắn này, chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề rộng lớn trên đây mà chỉ đơn giản tìm hiểu các nét độc đáo và tiêu biểu trong thơ thiền Nhật bản, nhất là đối với thể thơ haiku, với hy vọng giúp chúng ta khám phá bầu không gian êm ả, nhẹ nhàng và thanh thoát bên trong tâm hồn của các thi nhân và thiền sư Nhật bản.  

 

            Mặc dù thiền Zen là một sự thừa hưởng từ thiền Chan của Trung quốc, thế nhưng sau khi được đưa vào Nhật bản thì thiền Chan đã khoác lên mình một chiếc áo mới và tạo ra trong tâm hồn mình những xúc cảm mới để trở thành thiền Zen. Các nguyên nhân đưa đến sự biến dạng này, ngoài sự thích ứng với tánh khí, phong tục, văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc Nhật còn phải kể đến các yếu tố xã hội, lịch sử và khung cảnh thiên nhiên của nước Nhật. Trong lãnh vực thi ca cũng vậy, Đường thi của Trung quốc và thơ thiền Nhật bản là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Thơ Đường phát triển và đạt đến độ tột đỉnh vào các thế kỷ thứ VII đến thứ IX trong thời vàng son của nền văn minh Trung quốc, và thời kỳ này cũng được đánh dấu bởi sự xuất hiện của một nhà sư khác thường là Huyền Trang (602-664). Mặc dù chịu ảnh hưởng khá rõ rệt giáo lý Phật giáo, thế nhưng Đường thi vẫn còn mang nặng tư tưởng triết học Lão giáo, nhất là chủ trương "vô vi" của Lão Tử. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu các ảnh hưởng Lão giáo trong bài thơ Trúc ly quán dưới đây của Vương Duy (Wang Wei, 701-761) và sau đó sẽ đối chiếu với những bài thơ của các thiền sư Nhật bản.  

                               Trúc ly quán                         Rặng trúc tại quê nhà

                                                                                                                               

                獨 坐 幽 篁 裡      Độc toạ u hoàng lý,                          Ngồi một mình trong bóng tối bên khóm trúc

                彈 琴 復 長 嘯     Đàn cầm phục trường khiếu.            Khẩy đàn và hát mãi.         

                深 林 人 不 知     Thâm lâm nhân bất tri.                      Nơi chốn rừng sâu nào ai biết.

                明 月 來 相 照     Minh nguyệt lai tương chiếu.            Trăng sáng cùng ta chiếu vào nhau.

 

            Tựa bài thơ khá cô đọng chỉ gồm ba chữ 里 館 / Trúc Ly Quán, do đó dễ gây ra hiểu lầm, Chữ ly () trong tựa bài thơ và chữ () ở cuối câu một là cùng một chữ - giản thể và phồn thể - và mang cùng một nghĩa là nơi chốn, nhưng cũng có nghĩa là quê hương, quê nhà. Chữ quán () trong tựa bài thơ có nghĩa là nhà, chỗ ở, nơi trú ngụ hay quán trọ, thế nhưng cũng có nghĩa là quê quán, làng mạc, quê hương. Trong trường hợp của bài thơ trên đây, thiết nghĩ chứ quán có nghĩa là quê quán thì đúng hơn là quán ăn hay quán trọ. Tóm lại có thể hiểu tựa của bài thơ là "Khóm trúc hay Rặng trúc nơi quê nhà", nhưng tuyệt nhiên không có nghĩa là một "Cái quán mang tên là Trúc Ly". Nội dung của bài thơ mô tả một thi nhân ngồi đàn và hát trong bóng tối của một bụi trúc hay bụi tre trong một khu rừng hoang vắng, nhưng không phải là ở trong hay bên cạnh một nhà trọ, một quán ăn hay quán nước nào cả. Mạn phép dài dòng là vì các bản dịch tiếng Việt, kể cả một số bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp được tham khảo, dường như hầu hết đều hiểu sai về cái tựa của bài thơ này. Hai chữ trúc ly không có nghĩa gì cả, chữ ly hay là một giới từ chỉ nơi chốn đi đôi và xác định chữ quánquê nhà.

 

            Ngoài ra trong câu thứ nhất, chữ hoàng (篁) có nghĩa là bụi tre, khóm tre hay rặng tre; và hai chữ hoàng lý (篁裡, chốn rừng tre) trong văn chương và hội họa Trung quốc còn mang thêm một ý nghĩa mở rộng hay nghĩa bóng, nói lên một nơi tĩnh mịch và hoang vắng. Hơn nữa trong câu thứ nhất cũng còn có một chữ khác rất quan trọng là chữ u (館), có nghĩa là bóng tối, nơi u tối, tiếc thay trong số các bản dịch tham khảo - bằng tiếng Việt và cả các tiếng Tây phương - dường như các dịch giả không quan tâm đúng mức vì không thấy nói đến trong các bản dịch, thế nhưng vai trò của chữ này lại rất quan trọng, làm nổi bật ý nghĩa của câu kết: ánh trăng sáng rọi vào thi nhân đang ngồi đàn trong bóng tối của rặng trúc. Bóng trăng khám phá ra thi nhân trong bóng tối, thi nhân từ bóng tối trông thấy lý tưởng của mình qua ánh trăng vằng vặc. Ánh trăng sáng chiếu vào thi nhân trong bóng tối, thi nhân dạo đàn và hát cho bóng trăng nghe. Sự trao đổi giữa "đôi bạn" tri âm và tri kỷ trong cảnh u tịch nơi quê nhà là nội dung của bài thơ, nói lên một sự nuối tiếc nào đó của tác giả, nay đang phải sống trong cảnh mũ áo xênh xang nơi chốn triều đình.

 

            Vậy, xin tạm dịch bài thơ của Vương Duy như sau:  

 

                                                Rặng trúc nơi quê nhà

                                               

                                                Bóng tối riêng ta bên khóm trúc,

                                                Hát vang khẩy mãi chiếc đàn cầm.

                                                Heo hút rừng sâu nào ai biết?

                                                Một bóng trăng lên ta với trăng.

 

tho thien nhat ban 1

Tre - Vô danh, thời đại nhà Minh hay nhà Thanh, trường phái Su Shi (蘇, Tô Thức, 1037-1101, còn gọi là  Su Dong-po / 蘇東 / Tô Đông Pha)

(Metropolitan Museum of art, New York)

 

            Vương Duy là một vị quan tại triều đình nhà Đường, vừa là thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nhưng cũng là một người tu thiền, vào cuối đời đã hoàn toàn rút lui khỏi thế giới bon chen và phồn hoa của thế tục. Tuy là một người Phật giáo trung kiên, thế nhưng thơ của ông, ít nhất là bài thơ trên đây, lại thấm đượm thật rõ nét chủ trương thoát tục và vô vi của Lão giáo.

 

            Đến đây chúng ta lại chuyển sang tìm hiểu một bài thơ của vị thiền sư Nhật bản Eihei Dogen (Đạo Nguyên, 1200-1253):

 

Tiếng mưa rơi

 

鏡清雨滴声                   Kiku mama ni                       Just hearing                        

また心なき                   mata kokoro naki                 without extra mind [that grasps them]

身にしあれば               mi ni shi areba                     the jewel-like raindrops

おのれなりけり          onore nari keri                     dripping from the eaves

軒の玉水                        noki no tamamizu                are myself.

 

                        Tạm chuyển ngữ dựa vào bản dịch tiếng Anh trên đây:

 

Lắng nghe,

Với tâm thức buông thả [nhẹ nhàng, không bám víu]

Các hạt mưa tương tư như các viên ngọc,

Rơi trên mái hiên ngoài,

Bỗng hóa thành chính ta.

 

            Bóng trăng và Vương Duy là hai "người bạn" tâm giao trong cảnh u tịch, thế nhưng Đạo Nguyên và hạt mưa trên mái am chỉ là một: Đạo Nguyên là hạt mưa đang rơi, hạt mưa trên mái là Đạo Nguyên, cả hai hóa thành một viên ngọc. Đó là sự khác biệt giữa một bên là một thi nhân tìm thấy lý tưởng của mình nơi bóng trăng trong một khu rừng vắng và một bên là một thiền sư hòa mình một cách hài hòa với vũ trụ qua từng giọt mưa trên mái am.

 

            Đến đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu thêm một bài thơ khác của thiền sư Đạo Nguyên:

 

Một cánh hạc [lưng trời],

Dù tung cánh đến nơi nào, hay từ đâu bay lại,

Chẳng bao giờ lưu luyến một đường bay.

Thế nhưng cánh chim trời

Nào có bao gi lạc hướng.

 

            Một người tu hành thấu triệt được Dharma (Đạo Pháp), trông thấy được sự Thật của thế giới, thì dù đang trong hoàn cảnh nào hay phải đối đầu với cảnh huống nào, cũng sẽ chẳng bao giờ lạc hướng. Bản tiếng Việt trên đây được phỏng dịch dựa vào hai bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp:

Water birds                                                                 Où qu’il aille, d’où qu’il vienne,
going and coming                                                      L’oiseau aquatique
their traces disappear                                               Ne laisse aucune trace.
but they never                                                             Pourtant, jamais?
forget their path.                                                        Il ne perd son chemin.

            Đến đây chúng ta lại tìm hiểu thêm một bài thơ khác của một thiền sư Nhật bản khác là Shosan Suzuki (1579-1655):

 

Cùng đi trong cơn mưa Như Lai,

Cà-sa ướt sũng cả hai vai.

Ô kìa! Trên những tàu lá sen,

Chẳng có một giọt nào đọng lại.

                                                                       

            Một đoàn người tu hành bước đi trên đường vẫn còn bám víu vào Dharma, thế nhưng dưới ao, trên các tàu lá sen, chẳng có một giọt mưa nào đọng lại.

 

            Nếu đối chiếu bài thơ của Vương Duy với những bài thơ của Đạo Nguyên và Shosan Suzuki thì chúng ta tất sẽ thấy ngay những bài thơ của các thiền sư Nhật bản thấm đượm tinh thần Phật giáo sâu đậm hơn, trong khi đó bài thơ của Vương Duy phản ảnh trực tiếp hơn tư tưởng của Lão giáo. Đường thi hay thơ thiền của Trung quốc nói chung thường pha lẫn ít nhiều quan điểm của Lão giáo về xã hộinhân sinh, trong khi đó thơ thiền Nhật bản phản ảnh giáo lý Phật giáo về sự giải thoát con người ra khỏi thế giới hiện tượng. Trên phương diện thực tếcụ thể, sự khác biệt giữa hai thế giới thi phú trên đây liên hệ mật thiết với các yếu tố thời giankhông gian. Thơ thiền Nhật bản xuất hiện sau thơ Đường nhiều thế kỷ, sớm nhất là vào thế kỷ XIII sau khi Đạo Nguyên đưa học phái Soto (Tào động) vào nước Nhật, và sau đó thiền học Nhật bản tiếp tục phát triển hoàn toàn biệt lập với thiền học Trung quốc.  

 

            Ba thế kỷ sau khi Đạo Nguyên đưa Thiền học vào hòn đảo Nhật bản, tức là vào thế kỷ XVI, người ta thấy xuất hiện trong nền thi ca Nhật bản một thể loại thơ hoàn toàn mới lạ và độc đáo, gọi là thơ haiku. Chữ haiku trong tiếng Nhật thật ra cũng chỉ có nghĩa là sự "vui đùa", "giải khuyây" (amusement) tạo ra một sự thư giản. Haiku là một thể thơ cực ngắn, có thể viết theo hàng ngang, hoặc thẳng đứng theo lối chữ Hán, gồm ba đoạn hay ba câu: câu đầu gồm 5 âm, câu giữa 7 âm và câu cuối 5 âm. Ngoài ra thơ haiku không cần thêm một niêm luật nào khác cả. Tiếng Nhật đa âm, do đó 5/7/5 âm cũng chỉ đủ để nêu lên vài chữ hoặc một hay hai câu thật ngắn.

 

            Tuy vô cùng ngắn gọn thế nhưng thơ haiku phản ảnh thật sâu sắc và tinh tế sự cảm nhận đột ngột phi lý luận mà thiền học Zen gọi là satori, có nghĩa là sự hiểu biết siêu nhiên mang tính cách giác ngộ, Hơn nữa, đối với Thiền học Rinzai (Lâm Tế), mỗi câu thơ haiku là cả một công-án (koân), giúp người tu tập nghiền ngẫm và suy tư, nhằm mang lại cho mình sự giác ngộ satori vào một lúc nào đó.

 

            Chúng ta hãy nêu lên một câu thơ haiku nổi tiếng của Yosa Buson (1716-1784):

 

"Mi ni shimu ya" - (5 âm)

naki tsuma no kushi o - (7 âm)

            neya ni fumu" - (5 âm) 

 

            Nghĩa từ chương; "Cái gì đâm đau nhói / dưới gót chân tôi trong gian phòng ngủ / chiếc trâm (lược) của người vợ qua đời". What piercing cold I feel: / in our bedroom under my heel / my dead wife's comb " . Tạm dịch:

 

            Vật gì đâm vào gót chân đau nhói,

                        hóa ra chiếc trâm của người vợ qua đời,

                                    trong phòng ngủ đánh rơi.

 

            Một câu thơ thật ngắn, nói lên một xúc cảm thật sâu, mang lại một sự nhận thức bao la Cảm giác đau nhói ở chân khiến một thi nhân cảm nhận được sự phù du của sự sống và bản chất vô thường của hiện thực. Cảm giác đau nhói đó cũng có thể biền thành một sự qưặn đau trong tim, đánh thức một sự  bám víu trong tâm thức.

 

            Chúng ta lại tiếp tục nêu lên một câu thơ khác của thiền sư cận đại Shunryu Suzuki (1904-1971):

 

            Cùng nhau đi trong cơn mưa,

                        thầy tôi bảo: "Chớ vội vã như thế,

                                    nơi nào trời chẳng mưa!".

 

            (When my master and I were walking in the rain / he would say / “Do not walk so fast, the rain is everywhere).

 tho thien nhat ban 2

Nơi nào trời chẳng mưa

 

            Những gì mang lại từ những việc mình làm, suy nghĩ hay nói năng sẽ đeo đuổi mình khắp nơi trong thế giới hiện tượng. Vội vã, cuống quýt, lo buồn, mưu mô, tính toán chỉ làm cho cái gánh nặng trên vai tạo ra thêm khổ nhọc cho mình mà thôi. Cuống quýt làm gì, chẳng phải cơn mưa covid đang rót xuống khắp hành tinh này hay sao?

 

            Dưới đây là một câu haiku khác của Issa Kobayashi (1763-1826), tác giả của hơn 20.000 câu thơ haiku.

 

            Tuyệt vời thay,

                        qua một lỗ thủng của chiếc cửa sổ [bằng giấy],

                                    cả Thiên hà [hiện ra và chuyển động].

 

            (Utsukushi ya / shoji-no ana-no / Amano-gawa . Adorable / from the hole of the window / Celestial-river)  

 

            Câu thơ nói lên sự tự dogiải thoát của tâm thức, phản ảnh một sự mở rộng thật tuyệt vời. Câu thơ dưới đây của thiền sư Matsuo Bashô (1644-1694) cũng nói lên cảm nhận đó:

 

            Mượn khối đá làm gối,

                        tôi ngao du

                                    với mây trời.

               

                Nói chung, các câu thơ haiku tuy rất sâu sắc, thế nhưng trên phương diện hình thức và kỹ thuật lại rất đơn giản. Các vị thiền sư và thi sĩ Nhật bản thường lưu lại hàng ngàn hay hàng chục ngàn bài thơ haiku. Ngày nay thể thơ này vẫn còn sinh độngphổ biến, các sáng tác mới vẫn thường xuyên xuất hiện qua các phương tiện truyền thông tại Nhật. Nhiều người Tây phương ngày nay cũng làm thơ haikhu, thế nhưng dầu sao cũng hết sức khó tôn trọng quy tắc ngắt âm: 5/7/5.

 

            Các câu haiku nêu lên tư tưởng Phật giáo thường là những câu nổi tiếng nhất, biểu trưng cho điểm tột đỉnh của thể loại thơ này. Dưới đây là một số câu tiêu biểu.   

 

            Trước hết chúng ta hãy thưởng thức một câu thơ rất dễ thương của Chiyo-ni (1703-1775):

 

            Cọng rau muống,

                        quấn vào chiếc gàu cạnh giếng,

                                    khiến tôi phải xin láng giềng một ít nước.

 

            Câu thơ nói lên sự kính trọng thiên nhiên qua một cử chỉ thật nhỏ trong sự sinh hoat hằng ngày, một cử chỉ rất phụ nữ, phản ảnh một tâm hồn bàng bạc một tình thương thật nhẹ nhàng và giản dị, giản dị đến độ gần như đần độn. Tác giả Chiyo-ni là một ni-sư, tương tự như trong tiếng Việt, chữ ni là một từ gốc tiếng Hán 尼, dùng để chỉ một phụ nữ xuất gia. Ni- sư Chiyo từng lập gia đình năm 17 tuổi, thế nhưng hai năm sau thì người chồng qua đời. Người phụ nữ trẻ Chiyo trở về với gia đình để tiếp tục phụng dưỡng cha mẹtrông nom cửa hàng của gia đình. Năm 52 tuổi, sau khi cha mẹ qua đời, bà đi tu. Bà nổi tiếng là một phụ nữ xinh đẹp, làm thơ từ lúc lên bảy, và được xem là một trong các nữ thi sĩ nổi tiếng nhất của nước Nhật về thơ haiku.

                           

tho thien nhat ban 3

Ni-sư Chiyo và chiếc gàu

(tranh bản gỗ của Utagawa Kuniyoshi (1797-1861)

 

            Dưới đây là câu thơ mà bà đã viết vào ngày xuống tóc:

           

                        Sáp đỏ bôi môi,

                                    khiến miệng tôi quên cả 

                                                [hương vị của] cội nguồn nước mát.

           

            Sau đây là một câu thơ khác:

 

                        Ngủ một mình,

                                    bị cái giá buốt của đêm đen đánh thức:

                                                Ồ! sự giác ngộ, tuyệt vời thay.

 

            Bà đã viết câu thơ dưới đây trước khi qua đời:

 

                        Tôi từng được trông thấy mặt trăng.

                                    Thế giới này,

                                                xin vĩnh biệt!

 

            Trong Phật giáo, mặt trăng biểu trưng cho sự giác ngộ.

 

            Dưới đây chúng ta lại quay về với các vần thơ haiku của thiền sư Shunryu Sushuki.

 

Khi tôi vừa dứt lời,

        nào bạn có nghe thấy gì nữa đâu.

                    Vậy thì nhớ lại những lời tôi nói để làm gì?

 

Vừa trồng xong vài củ hoa loa kèn,

        vụt chợt thấy,

                    xanh biếc một màu mây.

 

Trong sương mù buổi sáng,

        cắt vội một cành hoa.

                    Sương mai đọng mờ đôi kính trắng.

 

Mùa thu buồn?

        Phó mặc cho cơn mưa,

                    Trong gian phòng trà, ấm nước đang sôi.

 

            Qua các vần thơ trên đây, chúng tacảm giác âm thanh, màu sắc, hình tướng, thiên nhiênthế giới, tất cả dường như hòa lẫn với nhau và tan biến hết. Trong tâm thức nghỉ ngơi và yên lặng của một thiền sư những gì còn lại chỉ là hiện thực đon sơ và trần trụi. Thế nhưng sự yên lặng và nghỉ ngơi đó của tâm thức đôi khi cũng chuyển thành các xúc cảm thật tinh tế và khó nắm bắt: trồng xuống đất một củ hoa loa kèn (lily flower) vụt thấy cả một bầu trời trên cao; cắt một cành hoa, thế nhưng chẳng trông thấy gì cả, cặp kính đọng mờ sương mai; mùa thu buồn là một sự tạo dựng của tâm thức, ấm nước đang sôi là hiện thực, sống với hiện thực là cách xóa bỏ những sự tạo dựng tâm thần. Sau đây là vài câu thơ haiku của thiền sư "Đại Ngu" Ryokan (1758-1831) có thể nói lên được các điều trên đây:

 

Cánh cửa sổ mở toang,

        quá khứ trở về tràn ngập trong tôi,

                    phong phú hơn cả một giấc mơ trong đêm.

 

Một sự an bình tỏa rộng,

        tôi gối đầu lên cỏ [bên vệ đường]

                    ở một nơi thật xa với chiếc am cỏ của tôi.

 

thiền sư đần độn,

        của những ngày năm ngoái,

                    năm nay sao vẫn thế!

 

            Ryokan là một gã thiển sư lang thang, đần độn, sống đơn độc trong một chiếc am cỏ nơi một khu rừng heo hút. Một hôm sau khi đi tản bộ về, ông thấy các vật dụng nghèo nàn của mình bị trộm vét sạch, ông lấy bút viết câu thơ haiku sau đây:  

 

Tên trộm,

        bỏ quên khuôn trăng,

                    bên thềm cửa sổ.

           

            Dường như trong tâm hồn của thi nhân thời gian luân lưu với một tốc độ khác hơn với chúng ta, không gian cũng vậy, chuyển động theo các hướng khác hơn, hoặc cũng có thể dừng lại, im lìm và tan biến hết. Câu haiku dưới đây của Yosa Buson có thể nói lên được điều đó:

 

Con bướm nằm yên

        say giấc trên chiếc đại hồng chung

                    của ngôi chùa.             

               

            Trong sự yên lặng mênh mông của cảnh chùa, chẳng thấy một chú tiểu nào đánh một hồi chuông. Con bướm, cảnh chùa và những người tu hành, tất cả dường như dừng lại với thời gian và thoát ra khỏi không gian.

 

            Sự cảm nhận đó cũng có thể hiện lên thật kín đáo qua câu haiku sau đây của Ryokan:

 

Đi nhặt củi khô,

        bước lên chiếc cầu,

                    trong sương mù buổi tối.

                                       

            Bếp lửa lạnh tanh trong chiếc am cỏ dưới chân núi Kugami phải chăng đang chờ gã thiền sư đần độn với những cành củi khô. Thế nhưng thời gian, không gian, cảnh vật, tất cả quyện vào nhau mờ đi và dừng lại với gã thiền sư đang bước lên chiếc cầu dưới bóng hoàng hôn.

 

            Chúng ta thường quen thuộc và gần gũi với các vần thơ ca tụng vẻ đẹp của mùa xuân, mùa thu, thế nhưng trong thơ haiku có rất nhiều bài nói đến các cơn mưa trong cả bốn mùa. Mưa cũng có cái đẹp của nó, cái đẹp đó rất kín đáo, trầm lặng, nhưng cũng có thể rất ray rứt, gợi lên nhiều kỷ niệm. Sau đây là vài bài thơ haiku nói về mưa của Kobayashi Issa:

 

Cơn mưa rào tháng sáu

        khiến bài thơ tôi dán lên tường bị bong,

                    thế nhưng vẫn còn lưu lại một tí dấu vết.

 

Dưới cơn mưa mùa hạ,

        cả con đường

                    cũng biến mất;

         

Này chim cú ơi!

        Hãy thay đổi gương mặt đi chứ!

                    [Trông kìa] cơn mưa xuân đang rơi.

           

            Sau đây là một câu thơ haiku của Oshima Ryota (1716-1784) về các cơn mưa mùa hạ:

 

Mưa tháng sáu không ngơi,

        [Thế nhưng]một hôm vào buổi tối, giữa các cành thông,

                                                [mọc lên] kín đáo một vầng trăng

 

            Thế nhưng, giữa cơn mưa, bầu trời cũng có thể tối sầm, mây đen vần vũ, lóe lên những tia chớp. Sau đây là một trong số các câu thơ haiku nổi tiếng nhất của Matsuo Bashô:

 

Tuyệt vời thay!

        Trông thấy một tia chớp,

                    nhưng không nghĩ rằng cuộc sống là phù du.

 

                 (稲妻にさとらぬ人の尊さよ/ inazuma ni -  satoranu hito no - tattosa yo / How admirable, to see lightning, and not think life is fleeting)

 

            Đối với thiền học Zen sự giác ngộ hiện ra thật đột ngột, tương tự như một tia chớp trên bầu trời tối đen. Tâm thức của chúng ta cũng vậy, vần vũ mây đen, những cơn mưa tiếp nối nhau không ngớt. Trong khung cảnh tối tăm đó đôi khi cũng có những tia chớp lóe lên. Nếu một người hành thiền biết giữ tia chớp trong tâm thức thật bền vững, thì đấy sẽ là cách xóa tan bão táp, mưa sa và soi sáng tâm thức mình. 

 

tho thien nhat ban 4

Con rồng và con hổ (1899)

Tranh lụa của Hashimoto Gaho - Bảo tàng viện Hoàng gia Nhật bản

 

            Sức mạnh của thiền định ào ạt như ngọn sóng của đại dương, sự hùng hổ của tâm thức tương tự như một con cọp chạy quanh trên gềnh đá. Cơn mưa là một con hổ, tia chớp xé toạc tấm màn u tối giúp chúng ta quán thấy sự mênh mông của tâm thứcsức mạnh của ngọn sóng đại dương. Vào mùa thu năm 1694, vài tuần trước khi qua đời, Matsuo Bashô từng viết một câu haiku gần với ý nghĩa đó:

 

Một tia chớp,

        tiếng kêu của con vạc đêm,

                    vỗ cánh bay vào cõi tối tăm.

 

(inazuma ya / yami no kata yuku / goi no koe. / A jag of lightning - Then, flitting toward the darkness - A night heron’s scream)

 

                Một tia chớp khiến sự u mê phải khiếp sợ, tan vào bóng đêm.

 

                Thơ haiku không mang mục đích viết cho con người và vì con người, mà chỉ là một cách nói lên sự bén nhạy của con người trước thiên nhiên. Thơ haiku không phát sinh từ lý trí mà từ con tim của con người là như vậy. Reginald Horace Blyth (1898-1964) một học giả người Anh rất uyên bác về thiền học Zenthi ca haiku, và cũng là bạn thân của thiền sư Daisetsu Teitaro Suzuki (1870-1966), từng nêu lên thật chính xác các đặc tính của thơ haiku:

 

- quên cái tôi (cái ngã) bằng cách mở rộngđồng hóa mình với thiên nhiên.

- nói lên sự yên lặng và cô đơn của thi nhân.

- tập trung tâm thức vào hiện thực.

- tránh mọi hình thức ba hoa, không tìm cách giải thích về một điều gì cả, mà chỉ nói lên một xúc cảm, một sự thật hiển nhiên và trần trụi trong thiên nhiên.  

- tránh sự hợp lý dựa vào lý trícác chủ đích đạo đức.

- biểu trưng một sự tương phản hay nghịch lý trong sự nhận thức.

- nói lên sự hóm hỉnh, ngớ ngẩn hay khôi hài.

- phản ảnh thể dạng cởi mở và phóng khoáng của tâm thức.

- luôn đơn giản, trực tiếp và thiết thực.

- bộc lộ tình thương yêu rộng lớn hướng vào thế giớivũ trụ, thế nhưng không hề bám víu vào bất cứ thứ gì hiện ra trong thế giớivũ trụ đó.      

           

            Nếu thơ Đường và cả thơ thiền Trung quốc nói chung chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Lão giáo thì thơ haiku phản ảnh quan điểm của Thần đạo (Shintoism), là một tín ngưỡng xem mọi hiện tượng trong thiên nhiên luôn hàm chứa một sức sống thiêng liêngthần bí. Dưới đây là vài vần haiku phản ảnh kín đáo sự thiêng liêng đó của Thần đạo:

 

            [Lạ quá] chiếc lá khô

                        quay về với chiếc cành của nó?   

                                    Không phải thế, đấy là con bươm bướm.

                                                                                    Masaoka Shiki (1867-1902)

 

                        Qua những đêm dài,

                                    tiếng nước chảy,

                                                nói lên những những khắc khoải trong tôi.

                                                                        Nakabayashi Gochiku (1827-1913)

 

                        Dưới cơn mưa mùa xuân,

                                    tất cả mọi sự vật

                                                đều trở nên tuyệt đep.

                                                            Ni-sư Chiyo

 

                        Mỗi cánh hoa rơi

                                    khiến cho cành mơ

                                                già thêm một tí.

                                                            Yosa Buson

 

                        Dưới mưa xuân,

                                    nếu không viết được một câu nào,

                                                thì quả thật đáng buốn.

                                                            Yosa Buson

 

            Mùa xuân lại sắp về, xin mạn phép tập tành vài câu haiku gửi tặng bạn đọc xa gàn:

           

                        Trên đỉnh cao,

                                    rào rạt gió xuân về,

                                                xao xuyến các cành thông .

 

                        Dưới làn  nước trong veo

                                    của con suối, các hòn cuội,

                                                đang thì thầm với nhau.  

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 27.12.20

                                                                                                Hoang Phong

                                                                       

 

                                               

 

 

 

 

  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13059)
Dù chỉ mới là những lời giới thiệu cô đọng nhưng súc tích của mỗi vị giảng sư nhưng đại chúng đều cảm nhận được biển tuệ mênh mông của quý ngài...
(Xem: 14485)
Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. - Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman.
(Xem: 14408)
Thông điệp từ trái tim của mỗi người sẽ là sợi dây truyền thông đến cộng đồng, bằng sự tương tác và tương tức; rằng, nếu mình phát đi tình thương thì người khác sẽ cảm nhận được...
(Xem: 19301)
Buổi sáng ra vườn, nhìn lên trời cao bồng bềnh mây trắng/ Nhìn xuống khu vườn, còn thơm ngát sương lan/ Nhìn ra đầm sen, nở rộ những cánh sen hồng...
(Xem: 13715)
Chúng ta ai cũng có sẵn trong lòng tình thương bao la, mang tình thương bao la đó mà làm việc, ta sẽ vượt mọi trở ngại bên trong và bên ngoài
(Xem: 15509)
Người thanh niên lái xe chỉ kịp bỏ vội đồng 5 xu vào cái nón mê của bà cụ rồi lại vội vã đánh xe đi, tránh những tiếng còi xe đằng sau inh ỏi.
(Xem: 13896)
Nó đến Úc, vào lúc Brisbane đang vào mùa hoa phượng tím... Những góc trời tím màu hoa. Chị nói chắc mấy cây phượng nở hoa đón em...
(Xem: 14705)
Sớm. Phố hãy còn lặng lẽ trùm chăn trong cái lạnh của màn sương dày đặc. Mây kéo về giăng kín khiến khí trời thêm buốt giá.
(Xem: 15255)
Mùa sen nở, mùa của những linh thiêng nơi thánh tích và trong lòng người. Những thông điệp được phát đi giữa mùa sen cũng là tiếng nói của lương tri con người trước hiện tại.
(Xem: 14772)
Cuộc sống là một dự án do chính mình thực hiện. Cuộc sống của bạn hôm nay là kết quả của những thái độ và sự chọn lựa của bạn trước đây.
(Xem: 13939)
Cuộc sống là một chuỗi những điều ưu tiên. Và những điều ưu tiên hàng đầu của bạn là gì? Hãy dành cho những người mà bạn yêu quý hơn 5 phút trong quỹ thời gian hằng ngày của bạn.
(Xem: 13525)
Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.
(Xem: 12775)
Bên trong cửa chùa, Nhân trở thành nhà làm vườn chuyên nghiệp tràn đầy niềm say mê sáng tạo cùng với nhiệt tình năng nổ của tuổi trẻ. Hắn có nhiều dự tính cho tương lai.
(Xem: 13984)
Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó...
(Xem: 13141)
“Hôm nay cá nhân tôi sống dưới ánh sáng từ bi của Đạo Phật và tôi đã mang tình thương yêu ấy đến với mọi người, không phải do tôn giáo của tôi mang đến, mà việc nầy khởi đầu bằng tình thương của người mẹ không biết chữ của tôi…”
(Xem: 13695)
Anh và em là những người có đạo. Nhưng đạo của chúng ta là một tôn-giáo nhân bản, một tôn giáo không hề có tín lý hay giáo điều...
(Xem: 13052)
Tôi cố gắng để phát triển một động cơ hay quyết định, mà như một thầy tu Đạo Phật, cho đến khi Phật quả của tôi, cho đến khi tôi đạt đến Phật quả...
(Xem: 12982)
Tin vô thường, ta biết mọi điều không thể mãi mãi như thế này, để không hí hửng vênh vang với cái mình có được, hoặc đau khổ nhụt chí với những thất bại mất mát...
(Xem: 13277)
Bạn sẽ thật sự hạnh phúc khi tiếng nói của nội tâm của mình được vang vọng trong chiều hướng thăng tiến của tâm linh, không còn sự chấp thủ...
(Xem: 14758)
Thật là dễ nếu cảm ơn những thứ tốt đẹp, nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa.
(Xem: 14990)
Giá trị của thành công được đo bằng thước đo của sự khó khăn, như lời Đức Phật dạy: “Ở đời đừng cầu không khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy”.
(Xem: 13122)
Mênh mông là nước, xanh xanh sâu lắng, cười đùa. Vung tay là nước, cười ra nước, hồn của nước non. Giữa khoảng không nầy, không gì có thể bám víu.
(Xem: 15088)
Có những lần ta lắng nghe chiếc lá… Chiếc lá nói rằng… …em thoát thai từ mẹ cây, em sống bởi sự vay mượn khí trời, ánh nắng...
(Xem: 21917)
“Bạch mai, em đi mãi”. Không có sự dừng lại trong vòng chuyển dịch sinh -diệt, diệt – sinh. Nó đắp đổi nhau tạo nên dòng chảy cuộc đời.
(Xem: 15202)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu.
(Xem: 14289)
Vậy là bên dưới những cuộc chiến, luôn có góc khuất, sự ẩn tàng của bình yên. Nếu khéo tay một chút, ta có thể phát huy năng lượng tươi tắn của đóa hoa...
(Xem: 14775)
Đối với người biết trích lấy tinh khí của cuộc sống thì chết không có nghĩa là sự suy tàn cuối cùng, nhưng là sự kết thúc trong thanh tịnh của một đời sống trọn vẹn...
(Xem: 14347)
Thiện do Đức Phật trình bày, thiện ấy là tốt đẹp, cao thượng và hoàn chỉnh. Thiện ấy là xuyên suốt mọi thời gian mà không phải từng giai đoạn.
(Xem: 17563)
Nhớ về những điều xưa cũ để định vị mình của hiện tại, để trân quý những gì đã qua, để biết ơn những người đã ở bên mình, là động lực cho mình...
(Xem: 17820)
Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không. Vừng trăng vằng vặc in sông, Chắc chi có có, không không mơ màng. Phan Trang Hy
(Xem: 17833)
Mây trắng bay đi đây đó, phơi mình trong nắng, thế mây trắng có thong dong không? Tôi hỏi và ngồi thật im, quán thật sâu để nghe mây trắng trả lời...
(Xem: 13893)
Trước thế kỷ này các nhà khoa học và thần học đều giả định giống nhau rằng vật chất không thể được tạo ra (hoặc hủy diệt) bằng các phương tiện có trong thiên nhiên.
(Xem: 13538)
Vào cõi thơ Mặc Giang một thoáng chơi, ta càng say đắm, trí tuệđạo đức con người càng tăng trưởng, cảm nhận được niềm vui vô tận.
(Xem: 12789)
Đừng để đến lúc ly biệt rồi mới thấy tiếc nuối những ngày tháng tương phùng. Đừng để tới giờ chia cách rồi mới bàng hoàng nghĩ đến những phút giây gặp gỡ...
(Xem: 14698)
Chúng ta chỉ có hai lựa chọn. Một là cố gắng một cách điên cuồng để đảo lộn mọi thứ, hai là cố gắng chấp nhận hoàn cảnh.
(Xem: 15049)
Ngày nay càng có nhiều sự thừa nhận qua sự phát triển và chứng minh của khoa học về sự nối kết gần giữa trạng thái của tâm và hạnh phúc.
(Xem: 15653)
Bằng việc quán tưởng về tiền bạc, chúng ta có thể cảm nhận được cả hai mặt của đồng tiền: nó có thể dìm ta xuống mà cũng có thể đưa ta lên...
(Xem: 15886)
Chẳng hay tự thuở nào, mỗi buổi sáng mở mắt bỏ chân xuống đất tìm dép để đi là con gọi mẹ. Cất bước, bước chân đầu tiên trong ngày là con gọi mẹ.
(Xem: 15492)
Một tâm thức an bìnhthanh thản giúp ta phát huy tình thươnglòng từ bi dễ dàng hơn, đấy là hai phẩm tính giúp ta loại bỏ mọi sự ganh tị, sợ hãi và nóng giận.
(Xem: 13137)
Đạo Phật nói cho tất cả chúng ta rằng, mọi người trên trái đất nầy đều là anh em. Tất cả chúng ta đều là người con của đức Phật. Bởi vì trong mỗi chúng ta đều có Phật tánh.
(Xem: 15239)
Cô bé choàng tỉnh giấc. Trời đêm. Vắng. Lạnh. Gió se sắt. Một giọng nói êm đềm cất lên: "Chào con gái của mẹ. Con hãy gia nhập đời sống trong khoảnh khắc vô cùng.
(Xem: 15657)
Trong năm giới luật (ngũ giới) dành cho những người con Phật tại gia, giới thứ tư là “không nói dối”. Rất nhiều người Phật tử đồng ý rằng, giới này là giới khó thực hiện nhất.
(Xem: 16412)
Nói dối, ta đã từng. Nói dối, có nghĩa là ta không thật thà. Có lúc bụng dạ ta thật thà nhưng ta nói dối và có khi bụng dạ ta không thật thà và ta nói dối…
(Xem: 16148)
Ai đó bảo, ngay khi cho bạn đã nhận lại (rất nhiều). Và thế là tôi áp dụng mệnh đề đó cho bằng an - một giá trị cao quý nơi tâm hồn...
(Xem: 17242)
Thông thường, người ta nói đến bạn có nghĩa là nói đến những thực thể đồng loạicon người. Và thường người ta bỏ quên những thực thể khác...
(Xem: 15759)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta?
(Xem: 14424)
Năm nay sẽ là một năm đặc biệt để người Nhật trải nghiệm sâu sắc về lẽ vô thường, hư ảo của cuộc sống qua từng cánh hoa rơi.
(Xem: 15409)
Một ngày mùa xuân, thi sĩ ngồi tĩnh tâm bên bờ nước trong vườn. Trời mưa nhè nhẹ, văng vẳng đâu đây tiếng chim bồ câu rung rúc vang vọng lại.
(Xem: 17154)
Daisy là đóa hoa của nàng công chúa Bạch Tuyết, có trái tim yêu thương không sợ hãi - dù gặp bà mẹ ghẻ phù thủy độc ác mà nàng không hận thù.
(Xem: 16222)
Trong cuộc sống, có rất nhiều cái mình không thể, hoặc không đủ trí tuệ, khả năng nhận biết sự hiện diện (từ xa) của nó nên mình đặt nó vào hai chữ… bất ngờ!
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant