Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Nam TôngBắc Tông

15 Tháng Ba 202119:57(Xem: 4224)
Vấn Đề Nam Tông Và Bắc Tông

VẤN ĐỀ NAM TÔNGBẮC TÔNG

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm

Theo Dấu Chân Phật

 

Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đây là một vấn nạn đã từng được lập đi lập lại như một dấu xe lăn trên con đường mòn, nhưng tiếc thay, con đường mòn đó không phải là Đường Đạo (The Way of Enlightenment). Nếu đã không phải là con đường dẫn đến giải thoát thì đó không còn là vấn đề lớn trong đại đa số Phật tử chúng ta; mà trái lại, đó chính là một chướng ngại lớn đến từ một cảnh giới của thức, hoặc có thể gọi là từ một trình độ trí thức của cái gọi là “sở tri chướng sở tri” theo lối nhìn của Thiên Thai Trí Giả (538-597).

Một khi đây là một vấn đề quá cũ kỹ thì câu hỏi và câu trả lời hẳn nhiên cũng không phải là mới, nghĩa là cả hai Vấn và Đáp đều lập lại từ trăm năm này qua trăm năm khác. Như vậy thì không phải là vấn đề “lớn” này cần đến lúc phải chấm dứt ư?.

Trước khi nói về cái hiểu biết chưa đạt đến cái gọi là Diệu Trí của chúng ta đã chướng ngại chúng ta như thế nào, người viết xin nói qua một vài dòng (với phạm vi giới hạn của một email) về Pháp Môn, Phật Lý, Chân Lý, Sở Tri Chướng; là một vài đề mục liên quan đến việc “khai tử” cho vấn đề lớn này, mà nơi đó, ông cha chúng ta, chính bản thân chúng ta, và có thể con cháu chúng ta đã, đang, và sẽ thảo luận, cũng như tranh cãi.

1.   Pháp Môn (Dharmaparyàya):

 Pháp tức là những lời dạy của Đức Phật. Pháp này là cửa ngõ cho các cõi trong 9 pháp giới Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc sinh, Người, Trời, A tu la, Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát tháo mở tập khí, thấy, hiểu, và vào được chân lý thì gọi là Môn. Khi đã nói đến 9 pháp giới thì dân cư trong 9 pháp giới này hẳn là có căn tánh khác nhau từ những chủng tử khác nhau mang theo từ Tạng thức A lại da luân chuyển, thay hình đổi dạng qua nhiều kiếp. Một khi Phật nói pháp cho 9 căn tánh khác nhau thì pháp Phật nói ra đương nhiên không phải là pháp cố định. Một khi không phải là pháp cố định thì pháp đó trở thành phương tiện tùy nghi, khế hợp với từng căn cơ sai biệt. Trong Tứ Tất Đàn gọi là Thế tục tất đàn, Vị nhân tất đàn, và Đối trị tất đàn, tức không phải là Đệ nhất nghĩa nhưng bao quát hết 12 bộ kinh, tám vạn bốn ngàn pháp tạng, hiển dương Thực Tướng; theo Đại Trí Độ Luận. Một khi pháp môn trở thành phương tiện khế hợp căn cơ thì Phật tử chúng ta có cần nhất quyết phải tranh cãi (đến 1.500 năm), để cho rằng pháp môn mình chọn là pháp môn hạng nhất không? Có cần phải xác quyết bài pháp Phật dạy ngày đó, tháng đó, giờ đó… mới là bài pháp tối thượng không?. Thật sự, bài pháp nào Đức Phật dạy cũng là bài pháp tối thượng, nhưng tối thượng cho một căn tánh nào đó khế hợp được với lời Ngài dạy vào thời điểm đó mà thôi. Câu trả lời này của quý Phật tử cũng là đã trả lời luôn cho câu hỏi về giáo pháp Tiểu thừa, Đại thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông v.v… pháp nào phải là pháp hạng nhất.

2.  Phật lý:

Viết đến đây khiến tôi nhớ lại những ngày còn cắp sách đến Đại học Văn Khoa những năm 1971-1975. Quy chế thi cử của Văn Khoa là một thí sinh thi đậu phần Thi Viết thì còn phải đậu cả phần Vấn Đáp nữa mới được cấp chứng chỉ cho năm học đó (còn gọi là Tín chỉ). Lúc tôi vào thi Vấn Đáp cho Tín Chỉ “Lịch sử Triết học Đông Phương”, ông Giáo Sư với cặp kính dầy cộm, rất khó tính, ngay giây phút hồi hộp đó lại viết đề thi rõ ràng lên bảng đen. Đây là một điều kỳ lạ, bỡi vì thi Vấn Đáp thì từng thí sinh lần lượt lên bục trả lời, nếu đề thi đã được công khai thì trong khi chờ đợi đến phiên mình, thí sinh có thể tha hồ mở sách tìm câu trả lời, đúng không?. Mặc dù Văn Khoa là một đại họctruyền thống đánh rớt 70% thí sinh Thi Viết, nhưng con số thí sinh còn lại không phải là ít.

Đề thi được công khai viết lên bảng là: “Thế nào là một quyển sách hay?”. Với đề thi này thì câu trả lời không có trong các tập sách thí sinh mang theo trong cặp, cũng không có trong đống sách ở nhà hoặc trong thư viện.

Sau cả tiếng đồng hồ bối rối, tên tôi cũng đến lượt lên trả lời. Thôi thì tôi liệt kê hết tất cả danh từ nào mà mình biết và nhớ được, nào là nhân bản, nhân sinh, nhân vị, chuyển tải được đạo đức, công bằng v.v… ông Thầy đều lắc đầu thất vọng. Sau cùng Thầy tôi nói: “Là một quyển sách hay nếu quyển sách đó có thể mang lại hạnh phúc cho con người”.

Trở lại với Vấn Đề Lớn của chúng ta, nếu bất cứ hệ thống truyền thừa nào của Đức Phật khế hợp được với căn tánh người nghe, mang lại hạnh phúc cho người nghe thì đối với người đó, hệ thống truyền thừa đó hay, và là hay nhất. Điều này áp dụng vào cả các thể chế chính trị, giáo dục, xã hội…

3.   Chân lý:

Khi nói đến hai chữ Chân Lý ở đây, tôi muốn nói đến Chân Kinh (do Phật thuyết), và Kinh Ngụy Tác (không phải do Phật thuyết).

Về Chân Kinh thì tất cả Phật tử không xa lạ gì với các phương pháp phân định thời kỳ Phật thuyết kinh của các tông phái nổi tiếng như Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông … mỗi tông mỗi vẻ; thiết nghĩ không cần phải nhắc lại.

Về Kinh  được cho là Ngụy Tác, theo Giáo Sư Paul L. Swanson trong quyển “Nền tảng Phật học Thiên Thai Tông” (Foundations of T’ien T’ai Philosophy), tôi xin chép lại một đoạn trong bản dịch của tôi xuất bản tại Saigon năm 2010:

“Một bảng liệt kê các bản văn được tin hoặc nghi ngờ là các bản kinh ngụy tác tại Trung Hoa gồm những kinh và luận quan trọng và có ảnh hưởng trong Sino-Japanese Buddhism. Bảng kể tên này có những tên quan trọng như: kinh Phạm Vương (còn được gọi là Mahayana Bharmajala), kinh Quán Vô Lượng Thọ, luận Khởi Tín, kinh Vô Lượng Nghĩa, và một số kinh khác. Những bản văn này không những gây được ảnh hưởng trong dân chúng mà còn tạo tiếng vang trong giới học giả Phật giáo. Tôi (Paul Swanson) đã chọn chữ “ngụy tác” (apocryphal) thay vì dùng chữ “bịa đặt” (forgery) hoặc “giả mạo” (pseudepigrapha), hoặc những việc giả dối (spurious works), vì tôi muốn tránh đưa ra cái nhìn phủ định đến từ những danh từ này. Những bản văn này “giả” với nghĩa không phải là nguyên văn của ứng thân Phật Thích Ca Mâu Ni, chắc chắn như vậy, nhưng không phải là “giả” với ý nghĩa các bản văn này mang một nội dung sai lầm, hoặc dạy người những việc phỉnh phờ. Sau cùng, Đại Trí Độ Luận nói: “Phật pháp không chỉ là những Chữ và Lời được nói ra từ Đức Phật, mà tất cả những ngôn từ chân thực, thiện lành, sâu xa, và an lạc trong thế giới này đều nằm trong Phật pháp”.

Huống chi chữ và lời chỉ là những phương tiện giả lập, tạo tác. Tùy căn cơ chúng sinh khác nhau mà việc hóa độ của chư Phật có khác nhau. Kinh Lăng Già A Bạt Đa La đã từng nói rất rõ rằng có cõi Phật tạo hình tướng để thuyết pháp, có cõi không cần hình tướng. Có cõi không dùng ngôn ngữ trừ khi tùy duyên tạo tác, làm như không làm thì chỗ nào gọi là có tánh cố đinh?. Không phải chỉ có ngôn từ, âm thanh, mà hương vị xúc pháp đều là kinh giáo, đều có thể hiển bày Phật lý. Pháp do nhân duyên hòa hợp thì giáo pháp cũng do nhân duyên hòa hợphiển hiện trong từng thời điểm khác nhau, cho từng đối tượng khác nhau, đối trị từng căn tánh khác nhau của chúng sinh.

4.  Sở Tri Chướng:

Về Sở Tri Chướng (Jneyavarana), Giáo sư Paul Swanson, trong quyển “Thiền và Chỉ Quán” (Ghi chú: Chỉ Quán ở đây chỉ cho phương pháp Chỉ và Quán của Thiên Thai Trí Giả. Về thứ bậc cao thấp thì có quyển “Chỉ Quán tọa thiền pháp pháp yếu” còn gọi là Đồng Mông Chỉ Quán dành cho người sơ cơ; và 9 quyển Maha Chỉ Quán dành cho các hành giảcăn tánh cao hơn), viết như sau. Tôi cũng xin chép lại một đoạn ngắn trong bản dịch của tôi xuất bản tại Saigon, năm 2011. Sở Tri Chướng được Paul Swanson gọi là Wisdom-Obstacle qua Anh ngữ:

“Chúng ta thấy ngay rằng Thiên Thai Trí Giả đã giải thích Sở Tri Chướng (Jneyavarana) là chướng ngại ĐỐI VỚI trí tuệ, và cũng là Chướng Ngại TỪ trí tuệ (sinh ra). Thí dụ, giống như 62 loại biên kiến. Những biên kiến này mặc dù mang theo sự khôn ngoan và thông minh, nhưng đây cũng chỉ là trí thế gian. Nếu hành giả mong cầu trí vô lậu, thì chính sự khôn ngoan, kèm theo hí luận này, cùng với những cái thấy sai lệch, trở thành chướng ngại cái thấy chân thực. Cũng như vậy, trí tuệ về Nhị Đế, cùng với vô minh trở thành chướng ngại Trung Đạo. Đây gọi là Trí Chướng, vì chỉ cho cả hai: cái gây chướng ngại và cái bị chướng ngại.”

Tóm lại, một hành giả không nên trở thành nạn nhân của chính mình trên con đường tu tậpbiên kiếnthành kiến tự mình tạo ra. Thêm vào đó, tôi nghĩ rằng chữ Hành này có thể đọc là Hạnh; và nên được hiểu là Hạnh; tức Đức Hạnh của người học và tu tập theo Phật pháp. Muốn tăng trưởng Trí Tuệ thì điều cần yếu là phải kiểm điểm Đức Hạnh. Cái Trí không phát sinh từ Đức Hạnh thì đó cái trí đó không phải là Trí Tuệ. Nói về điều này tôi cũng có ý nói đối với một số nơi, các thời khóa (hành) đã trở nên máy móc như một việc phải làm trong một ngày; khiến việc tư duy trở nên giới hạn và sai lệch.

Để kết luận, và cũng để tính cách luận lý giảm bớt cường độ khô khan, tôi xin tặng quý Phật tử 8 câu thơ cuối trích trong bài Thủy Chung tôi gởi cho tangthuphathoc.net nhiều năm trước.

“Trang kinh cuộn giấu thầm tâm kiêu mạn,
Mỏ chuông khua xé rạn cõi tịch hư.
Chia đôi bờ bỉ thử, gắng công dư
Khắc đạo lý lên màu tâm hồng, tía.
Câu huyền ca ẩn tàng kinh huyền nghĩa,
Huyền lại huyền, biết mấy kẻ tri âm.
Thấy kệ kinh, chẳng thấy tánh tức tâm,
Dùng thế trí vẽ vời lời chư Phật.”

 

Trân trọng,

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Tháng Hai năm 2021

 
___________________________________
Bài đọc thêm:
Thế Nào Là Kinh Điển Ngụy Tạo Trong Phật Giáo (Thích Lệ Thọ)
Kinh Ngụy Tạo (Apocrypha) (BS. Phạm Doãn dịch)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24139)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20564)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18812)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21311)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18266)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19838)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14836)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13944)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13143)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15390)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17846)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19446)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14701)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21989)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20620)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15764)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20706)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18625)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30592)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23852)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26542)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant