Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Lễ Tự Tứ

18 Tháng Tám 202120:03(Xem: 3370)
Ý Nghĩa Lễ Tự Tứ

Ý NGHĨA LỄ TỰ TỨ

Thích Trung Định

hanh lang nghe.jgp

Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina). Nếu an cư được bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 thì gọi là Tiền an cư (Purimikavassà), còn nếu như có duyên sự không thực hiện Tiền An Cư được mà phải dời lại một tháng sau, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 7 và kết thúc vào ngày 16 tháng 10 thì gọi là Hậu An Cư (Pacchimikāvassā). Truyền thống Phật giáo Việt Nam thường gọi là ‘An cư kiết hạ’, tức kiết túc an cư trong ba tháng Hạ theo truyền thống Phật giáo Bắc tông. Sau rằm tháng tư âm lịch Chư Tăng theo truyền thống Đại thừa bắt đầu kiết túc an cư, cho đến hết ngày mười bốn tháng bảy âm lịch, làm lễ tự tứgiải hạ kết thúc mùa an cư.

Lễ Tự tứ (Pavarana) là một ngày lễ quan trọng trong Phật giáo Nam truyền cũng như Bắc truyền được tổ chức vào Aashvin trăng tròn của tháng âm lịch. Nó đánh dấu sự kết thúc của ba tháng âm lịch của mùa an cư. Pavāraṇā thường được dịch là Tự tứ, và từ này đã được dùng phổ thông trong Phật giáoTuy nhiêný nghĩa chính thức và chủ yếu của từ Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu hay nói cách khác là sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ kheo đương sự thấy lỗi của mình mà sửa sai và hoàn thiện bản thân. Pavàranà cũng có nghĩa là sự tỏ cho nhau, thức tỉnh cho nhau, cho khỏi phạm tội để làm gương cho nhau và cho kẻ hậu lai noi theo.

   Đức Phật dạy trong Tạng Luật như sau: “Này các Tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Bằng cách ấy, các ngươi sẽ có được sự hòa thuận lẫn nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự hiểu rõ thêm về Luật.[1]

Trong khi lễ Bố tát gọi là trưởng tịnh, an cư là thúc liễm thân tâm, thì tự tứ là sự thỉnh cầu, sự thỉnh tội. Sự miên mật kỷ càng trong các nghi thức Phật giáo cho thấy tính logic, hổ tương, phụ trợ nhau để hoàn thiện nếp sống phạm hạnh. Nếu khôngBố tát thì không có an cư và cũng không có tự tứ. Bố tát là đọc lại giới bổn mà mình đã thọ xem thử nửa tháng vừa qua mình có phạm tội gì không. Còn tự tứ là lễ kết thúc sau ba tháng an cư, đến ngày chư Tăng mãn hạ, thực hiện một nghi lễ đối thú xưng tội với nhau. Đầu tiên các vị trưởng lão Hòa thượng được đại chúng cử gọi là Tự tứ nhơn. Thông thường một đại chúng lớn thì có ba vị làm Tự tứ nhơn. Họ sẽ đối thú nhau xưng tội cầu thỉnh vị kia chỉ tội để sám hối cho được thanh tịnh. Sau đó ba vị Tự tứ nhơn này sẽ lần lượt đi đến mọi người trong đại chúng để chư Tăng thú tội, nếu có thì sám hối. Và lần lượt ba vị một thú tội cho đến khi nào hết thì thôi. Luật tạng quy định, trong kỳ lễ Pavàranà có nhiều vị, không nên đọc Pavàranà chung cùng nhau, phải đọc mỗi vị 3 bận, trừ raduyên cớ như: thí chủ đương bố thí, Tỳ-khưu đương nghe pháp, đêm gần tàn hành Pavàranà, mỗi vị 3 bận không kịp, hoặc 10 điều nguy hiểm, không thể hành Pavàranà, mỗi vị đọc 3 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 2 bận, nếu mỗi vị đọc 2 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 1 bận, nếu mỗi vị đọc 1 bận không kịp, thì đọc chung cùng nhau với những vị đã nhập hạ chung một kỳ, nhưng phải tụng tuyên ngôn trước như vầy: Bạch đại đức Tăng, xin Tăng nghe tôi trình, ấy là điều nguy hiểm đến phạm hạnh, nếu Tăng pavàranà 3 bận chắc không kịp, điều nguy hiểm đến phạm hạnh ấy ắt sẽ phát sanh lên không sai. Nếu Tăng sự vừa đến Tăng rồi, Tăng nên Pavàranà (2 bận), (1 bận) cho Tỳ-khưu nhập hạ chung 1 kỳ nhau đều Pavàranà chung cùng nhau (samànavassikà Pavàranà).[2]

Theo tinh thần của Phật giáolễ Tự tứ hay thỉnh cầu vị khác chỉ lỗi của mình là một cách kiểm điểm lại bản thân mình, từ những hành động do thân, đến những lời nói phát ra từ khẩu, thậm chí là những suy nghi từ ý, nếu thấy những lời chỉ dạy đó là đúng sự thật, mình sẽ thành khẩn sám hối để được thanh tịnh. Nhờ vậy, mọi thành viên trong Tăng đoàn đều trở nên hoàn thiện, xứng đáng là bậc phước điền của nhân thiên.

Lễ tự tứ, là hình thức thú lỗi lẫn nhau, vì trong thời gian An cư chắc chắn ít nhiều có những lỗi lầm do thấy, do nghe, do nghi nên thú lỗi với Chư tăng trước khi từ giã lên đường hành đạo. Nghi lễ bắt đầu Chư tăng nhập hạ chung mặc y phục chỉnh tề, lễ bái Tam bảo, ngỗi chồm hổm với nhau đọc theo thứ tự hạ lạp, lớn đọc trước nhỏ hạ đọc sau:

Nghĩa: Kính bạch Quý ngài, Trong ba tháng An cư, tôi xin làm lễ Tự tứ với chư Tăng, nếu quý ngài có thấy, nghe, hoặc nghi những điều gì đối với tôi, xin quý ngài hãy từ bi chỉ bảo, để tôi hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì, lần thứ ba.[3]

Văn bản tiếng Hán dịch ra như sau: “Đại đức nhất tâm niệm, kim nhật chúng Tăng tự tứ, ngã Tỷ kheo....diệc tứ tứ. Nhược hữu kiến - văn - nghi tội, nguyện Đại đức ai mẫn ngự ngã, nhược hữu kiến tội, đương như pháp sám hối.” (Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo,… cũng tự tứ. Nếu có tội được thấy, được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần).) Người nhận tự tứ đáp: Thiện. Người tự tứ đáp: Nhĩ. (Đại chính 22, tr 837a).

Nghi thức tuy đơn giản nhưng rất thâm thúy và đầy đạo vị của những người xuất gia sống đời phạm hạnh. Giống như cánh đại bàng tự do giữa bầu trời thênh thang, sư tử oai hùng tự tại an nhiên giữa cánh rừng đại ngàn. Bậc xuất gia cũng tự do ung dung trong nội tâm, trước khi nhập hạ cũng diễn ra trong niệm đoàn kết, kết thúc cũng lục hòa bằng hình thức tự tứ. Sau lễ Tự tứ, Chư tăng lại bắt đầu lên đường làm nhiệm vụ của sứ giả Như Lai, hoằng truyền Phật pháp cứu độ chúng sinh.

Truyền thống an cưtự tứ trong Phật giáo diễn ra hằng năm. Nơi nào có trú xứ chư Tăng thì nơi đó có pháp an cư và tự tứ. Đây có thể nói là một nét đẹp truyền thống được người xuất gia đệ tử Phật giữ gìn qua bao thế hệ. Không vì bất cứ lý do gì mà hủy bỏ nghi lễ quan trọng này. Bởi ngoài sự thú tội, sám hối làm cho hành giả được thanh tịnh, thì nghi thức tự tứ còn làm tịnh tính tăng trưởng cho hàng nam nữ cư sĩ Phật tử. Không có một tôn giáo hay tổ chức nào có nghi lễ ý nghĩatuyệt đẹp như vậy. Nhìn quý thầy, quý sư đối thú nhau để xưng tội cầu sám hối nếu thấy, nghe, nghi thì đương như pháp sám hối mà thấy trang nghiêm linh thiêng, mầu nhiệm. Nghi lễ này cũng đánh dấu một chặng đường tu học của hành giả an cư trong ba tháng miên mật hành trì giới, định, tuệ để tấn tu đạo nghiệp. Sau lễ tự tứ mọi người đều tăng trưởng hạ lạp, tức thêm một tuổi đạo. Đây là niềm vui lớn nhất của người xuất gia học đạo. Thông qua mỗi mùa an cư, tự tứ mỗi hành giả tự thân cảm nhận được năng lực tu học của mình. Phước đức tăng trưởng, đạo nghiệp viên dung đó là ý nghĩa thiêng liêng và cao quý nhất của nghi thức tự tứ.

Pháp chế Tự tứ, nếu được đại chúng thực hành chí thành, đúng mức, thì đó thật là nguồn năng lực lớn lao để củng cố tinh thần hòa hợp thanh tịnh của Tăng già; trưởng dưỡng tâm bồ đề ngày càng lớn mạnh, bền chắc; giúp cho sự nghiệp nhiếp hóa chúng sinh thành tựu viên mãn. Chư vị thiện nam tín nữ cũng nương nhờ uy đức rộng lớn như biển của Đại Tăngtâm linh thăng tiến; nhờ tu học Phật pháptrí tuệ phát triển; nhờ thành tâm tu hạnh bố thí cúng dườngphước đức sâu dầy, duyên lành đối với Phật pháp sẽ kết chặt vững bền mãi mãi về sau.

Ghi chú:

[1] Luật TạngĐại Phẩm, Chương IV, Đoạn 14 (TK. Indacanda dịch Việt). 

[2] Tự tứ,  https://www.budsas.org/uni/u-luatxg/luatxg-10.htm

[3] Pavarana, From Wikipedia, the free encyclopedia, https://en.wikipedia.org/wiki/Pavarana, 09.06.2016.

Thích Trung Định
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18817)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19840)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14001)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17629)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15392)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21890)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25128)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18968)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15769)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20714)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17001)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20011)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30595)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23856)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant