Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh Thần Bình Đẳng Trong Phật Giáo

07 Tháng Giêng 202219:43(Xem: 3258)
Tinh Thần Bình Đẳng Trong Phật Giáo
Tinh Thần Bình Đẳng Trong Phật Giáo 

 Thích Phước Đạt


buddhism


Kể từ khi Đức Phật thành đạochuyển bánh xe pháp thì lý tưởng thực thi tinh thần bình đẳng giải thoátbình đẳng xã hội đã bắt đầu thể nhậpdần dần lan toả không chỉ trong xã hội Ấn Độ cổ đại mà còn truyền bá khắp các nước trên con đường truyền bá Chánh pháp khắp mọi nơi. Đó vừa là thông điệp mang giá trị tối thượng thiêng liêng Phật giáo đóng góp cho nhân loại trên phương diện bình đẳng giải thoát tâm linh, vừa cống hiến cho nhân loại một tuyên ngôn bình đẳng xã hội trong việc thiết lập nền hạnh phúc nhân văn, nhân quyền mà bất cứ ai hiện hữu trên cõi đời đều mong chờhy vọng.

Đức Phật từng dạy rằng: “Ta ra đời vì lòng thương tưởng với đời và vì hạnh phúc của chư Thiên và loải người”, cũng chính Đức Phật tuyên bố rằng: “Cũng như nước biển chỉ có một vị là mặn, đạo của Như Lai cũng có một vị là giải thoát”. Đây chính là cơ sở nền tảng để mỗi cá nhân tự giải thoát khổ đau cho chính mình và cộng đồng, xã hội thực thi lý tưởng xây dựng đời sống hạnh phúc, bình đẳng, dân chủtự do trong mọi thiết chế.

Và như thế từ ý niệm giải thoát, mới có khái niệm bình đẳng giải thoát, bình đẳng xã hội hay dân chủ, đoàn kết trong xã hội có sự phân chia giai cấp. Thực ra, giải thoát là khát vọng muôn thuở của con người trong mọi thời đại, mọi xã hội, chứ không riêng gì trong thời đại Đức Phật. Giải thoát, thường được hiểu là sự cởi trói, giải phóng các ràng buộc, hệ luỵ bức bách, khổ đau của đời người. Ý nghĩa giải thoátĐạo Phật thiết lập không chỉ mang nội dung bao quát về vấn đề giải thoát xiềng xích, mâu thuẫn đối kháng các giai tầng, giai cấp hay vấn đề cơm áo gạo tiền của sinh tồn mà còn là giải thoát khỏi sự thống khổ, nỗi đau sâu tận của sanh, già, bệnh, chết, của sanh tử luân hồi trong cái thế giới vô thường đầy biến động

Chính Đức Phật được sinh ra và lớn lên trong một xã hội bị chi phối bởi giáo điều giải thoát của Bà-la-môn giáo. Một xã hộiý niệm giải thoát của Bà-la-môn giáo chỉ dành cho những người thuộc đẳng cấp đẳng cấp giáo sĩ và vương tướng thuộc Bà-la-môn và đẳng cấp Sát-đế lỵ. Còn người thuộc đẳng cấp tiện dân Thủ-đà-la thì không có quyền nghe kinh, xem kinh Veda, nếu phạm thì bị cực hình. Kinh Veda là chân lý tuyệt đối, phải tin và phục tùng. Từ đó, việc tổ chức tế đàn cúng pháp là điều tối thượng, mọi người kể cả vua chúa phải tôn sùng đẳng cấp Bà-la-môn như là đẳng cấp cao quý nhất trong xã hội, đẳng cấp có thể giao tiếp với thần linh, thậm chí có thể sai sử thần linh. Và như thế, ngay trong xã hội Ấn Độ cổ đại, ta thấy con người thành nô lệ của tế đàn của kinh Veda, thần linh và đẳng cấp Bà-la-môn. 

Trong khi đó, Đức Phật tự thân trải nghiệm con đường giải thoát bằng sự tự thân tu tập, tự thân hành trì và tự thân chứng ngộ. Khi còn là thái tử Ngài đã từ giã ngai vàng điện ngọc, dấn thân tiếp cận 4 cửa thành để nhận ra bốn hiện thực sống động của sinh già bệnh tử. Chính điều này làm Ngài quyết định thực hành cuộc đời tu hành của mình qua 6 năm khổ hạnh, 49 ngày đêm tư duy thiền địnhthành Phật ngay giữa cõi đời này.

Đạo Phật là đạo đến để mà thấy, thấy mà trải nghiệm và tự thực chứng. Đức Phật từng tuyên bố trong nhiều bản kinh: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Giáo lý Ngài chứng ngộ dưới gốc cây Bồ đềgiáo lý Duyên khởi, con ngườivạn pháp là do duyên sinh. Do nhân duyên sinh nên con ngườivô số mối quan hệ, tương quan tương duyên. Cũng vì thế giáo lý của Đạo Phật khẳng định con người là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, ai nỗ lực tu hành, chuyển hoá nội tâm đều thành Phật. Tất cả mọi người sinh ra, lớn lên, trưởng thành, chết đi đều bình đẳng về mặt giải thoát, không phân biệt người đó thuộc giai cấp nào trong xã hội.

Từ đây, Đạo Phật đi vào cuộc đời, đã mở ra cánh cửa giải thoát bình đẳng cho con người, đồng nghĩa nó có tác động vào xã hội về việc ý thức xây dựng một thiết chế xã hội bảo vệ quyền được sinh ra và quyền được mưu cầu về hạnh phúc, độc lập, tự do của con người trong chiều hướng thăng tiến đi lên tất yếu của lịch sử. Cũng lý tưởng này, mà con người tự chuyển hoá chính mình và góp phần cải tạo thế giới xoay xung quanh môi trường sống của mình. Đạo Phật càng khẳng định không ai sinh ra phải bị xem là thành phần giai cấp nô lệ cho kẻ khác và cam chịu đóng khung khi bị áp bức phục tùng giai cấp thống trị. Chính Đức Phật chưa từng bao giờ tự xưng mình là đấng Sáng tạo hay đòi hỏi tín đồ phải tin và phục tùng mình như thần linh.

Đức Phật chỉ hiện thân là một con người, nhưng là một con người hoàn thiện, toàn bích nhờ công phu tu tập chứng ngộ. Và Ngài cũng chỉ cho con người nhận thức sự thật khổ đau và chỉ ra con đường giải thoát mọi khổ đau để trở thành có phẩm hạnh cao quý như Ngài. Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đã di huấn cho Ananda rằng: “Chắc chắn là sẽ có người nào đó nghĩ rằng, Ta sẽ lãnh đạo Tăng chúng, Tăng chúng sẽ phụ thuộc vào Ta, Ta sẽ có những chỉ thị để điều hành mọi vấn đề của Tăng chúng. Không, Như Lai không nghĩ rằng, Như Lai phải lãnh đạo Tăng chúngTăng chúng phải phụ thuộc vào Như Lai. Sao Như Lai lại có thể để lại những chỉ thị cho Tăng chúng. Vì vậy, này Ananda, hãy lấy chính mình làm ngọn đèn. Hãy lấy chính mình làm chỗ dựa cho mình. Hãy nắm vững chánh pháp như ngọn đèn, hãy nắm vững chánh pháp như một chỗ dựa. Hãy tìm chỗ dựa ở nơi chính mình, chớ không ở bất cứ người nào khác”.

Đó là giá trị nhân văn cao nhất trong ý niệm bình đẳng giải thoát, cũng là cơ sở thực thi lý tưởng bình đẳng xã hội của quyền làm người. Đó là đạo lộ thực hành nếp sống đạo đức hiền thiện, trau dồi phẩm hạnh theo năm giới, theo luật nghi, gia phong nếp nhà. Sự trau dồi nội tâm kiên định vững chãi trong ứng xử với các mối quan hệ của con người theo tinh thần “lục hoà”, chính là sáu sự hòa hợp, bao gồm mọi người cùng ở một trú xứ, cùng hưởng phúc lợi, cùng nói năng hòa hợp, cùng thực thi những nguyên tắc chung… Nhất là sự thăng tiến trí tuệ bừng sáng để mọi người cùng nhau đóng góp cho đời trên mọi phương diện lĩnh vực của thời đại. Vì lẽ đó, mọi người tự nỗ lực hoàn thiện chính mình, là góp phần công đức cho xã hội. Phật Thích Ca từng khuyến cáo các đệ tử: “Các người phải tự tin ở bản thân các người, các người phải sống chân chính dựa vào bản thân nỗ lực của các người. Các người phải dựa vào bản thân các người để cuối cùng dứt bỏ hết được mọi tư tưởng vị kỷ, và nhờ đó đoạn trừ mọi đau khổ”…

Phật giáo được truyền bá vào Viêt Nam từ đầu thế kỷ I sau Công nguyên, trong bối cảnh nước ta bị nhà Hán đô hộ với chủ trương đồng hoá dân tộc ta thành người Hán. Chính lý tưởng bình đẳng giải thoát của Đạo Phật đã hoà nhập vào tinh thần yêu nước, yêu độc lập, yêu tự chủ, yêu tự do của nhân dân ta. Tất cả đã tạo nên sức mạnh nội tại đoàn kết toàn dân mà không phân biệt đạo hay đời, tại gia hay xuất gia để tạo nên kỳ tích chấm dứt một nghìn năm phong kiến Trung Hoa đô hộ, để thiết lập một quốc gia Đại Việt hùng cường thời Lý – Trần từ đó về sau. Nói theo cách diễn đạt của thiền sư Mâu Tử để giải quyết vấn đề này trong Lý Hoặc Luận vào thế kỷ II sau Công nguyên là: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha, ra ngoài xã hội thì yêu nước hộ dân, khi ngồi một mình thì phải biết tu thân”.

Thực tế mỗi người dân Việt thực thi nếp sống đạo đức là thực thi thông điệp bình đẳng giải thoát, cũng là góp phần xây dựng tinh thần bình đẳng xã hội. Cuộc sống đạo đức hiền thiện của người dân hằng ngày sẽ dần dần đem lại sự định tâm, sự bình lặng và trong sáng của tâm thức, từ đó trí tuệ khai mở để giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, quốc gia yêu cầu, cá nhân con người mong chờ. Thiền sư Pháp Thuận đã cụ thể hoá tinh thần bình đẳng giải thoátbình đẳng xã hội qua tuyên ngôn:

“Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiênthái bình,
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh”

(Vận nước như dây mây leo quấn quýt,

cõi trời Nam cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,

Khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh).

Còn vua Trần Thái Tông nghe theo lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm mà thực thi lý tưởng bình đẳng giải thoát thành Phật ở đời: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Lòng lặng mà biết, đó là Phật thật”. Ông đã vừa làm vua, vừa làm Phật, vừa lãnh đạo toàn dân đoàn kết đánh tan đội quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ nhất trong buổi đầu khai sáng sáng ra triều đại nhà Trần. Bí quyết thành công vào thời đại nhà Trần là các nhà lãnh đạo quốc gia, cũng là lãnh Đạo Phật giáo Đại Việt đã biết đánh thứccụ thể hoá tinh thần bình đẳng giải thoát Đạo Phật bằng tinh thần yêu nước là yêu đạo, yêu đạo là yêu khả năng chuyển hoá nội tâm tu tập của mỗi người để thành Phật ngay ở đời. Và như thế ai cũng phát huy khả năng tiềm ẩn thành Phật của mình, là thành con người tự chuyển hoá, tự hoàn thiện cao nhất để đóng góp cho đời và cho đạo dù là xuất gia hay tại gia. Đúng như vua Trần Thái Tông đã nói trong bài Phổ khuyến Phát Bồ đề tâm văn trong sách Khoá Hư Lục: “Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, bất câu tăng tục, xuất gia tại gia, chỉ yếu biện tâm…” (Không kể là ở ẩn trên núi hay là giữa thị thành, không kể là tăng hay tục, là xuất gia hay tại gia, điều chủ yếu phải làm là biện tâm, tức là tu tập tâm, chuyển hoá tâm…).

Tinh thần này còn được các nhà lãnh đạo nhà Trần đẩy lên cao khi chủ trương Phật và chúng sinh là không khác. Trong bài Phật tâm ca, Thượng sĩ cũng khẳng định: “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Khi Trần Nhân Tông lên ngôi Hoàng đế, Ngài tiếp nối tinh thần bình đẳng giải thoát thực thi sức mạnh nội kết toàn dân, thể hiện qua hội nghị Diên Hồng để đi đến thắng lợi hoàn toàn, và hướng đến xây dựng quốc gia Đại Việt hùng cường bấy giờ. Quốc gia ấy chính là thế giới Phật quốc, là Tây phương Cực lạc ngay giữa cõi đời này mà Phật hoàng Trần Nhân Tông hướng đến trong tuyên ngôn Cư trần lạc đạo phú.:

“Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn nghi ngờ đến Phương Tây”,
Di Đà là tính lặng soi,
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc…”.

Tiếp nối tinh thần này, ngày nay đất nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển. Phật giáo từ Việt Nam từ xưa đến nay bao giờ cũng đồng hành cùng dân tộc trong mọi thời đại. Sự hội nhập toàn cầu của đất nước cũng chính là sự hội nhập Phật giáo đối với cộng đồng xã hội, với các dân tộc, quốc gia thân hữu trong tinh thần:

“Mỗi người mỗi nước, mỗi non.
Khi vào cửa Phật, con chung một nhà”.

Từ điểm nhìn này, dưới ánh sáng của Đạo Phật, tất cả mọi dân tộc cũng như mọi người đều bình đẳng về hạnh phúc, về tự do trong đời sống hiện hữu này. Bản kinh Diệu Pháp Liên Hoa là sự minh chứng cho lý tưởng giải thoát bình đẳng trong hiện thực hoá cuộc đời. Hình ảnh hoa sen đâu ở trong bùn, vươn lên từ trong bùn lầy, nở hoa tươi đẹp vô cùng. Nó minh chứng cho sự sự hợp nhất, sự quy hướng về Phật thừa duy nhất. Cũng vậy, mọi người, mọi thành phần xuất thân khác nhau trong xã hội cũng có thể sống trong nhà Phật, ăn cơm Phật, mặc áo Phật, làm việc Phật với cái tâm Phật thì sẽ có cuộc sống an lạc, hạnh phúc cho bản thâncộng đồng. Đó chính là Diệu Pháp Liên HoaĐạo Phật cung cấp cho chúng ta qua mọi thời đại. Hẳn nhiên thời đại 4.0 là thời đại kết nối toàn cầu, con người càng có thuận duyên quy hướng các giá trị về tinh thần bình đẳng giải thoát, bình đẳng xã hộiPhật giáo đem lại.

 

*Thượng tọa Tiến sĩ Thích Phước Đạt – Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3263)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2519)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2462)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2381)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 3141)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3917)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2875)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 3002)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2571)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2613)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2608)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2280)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2601)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2965)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3903)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
(Xem: 2919)
Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. C
(Xem: 3572)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li
(Xem: 2776)
Trong những ngày đầu năm mới, có rất nhiều người tìm đến chùa hay các nhà tử vi, tướng số để xem năm nay mình bị “sao” nào “chiếu”.
(Xem: 2377)
Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì Tự tánh vô công khắp hiện bày Sáu căn vận dụng chân thường thấy Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.
(Xem: 3282)
Một ngày cuối năm, sau tách trà sáng chào ngày mới, tôi vội vàng ra ga tàu đón người bạn đạo xa quê trở về thăm chốn cũ.
(Xem: 2837)
Trong những điển tích Phật giáo, tôi từng băn khoăn về chuyện một con cọp lông vàng. Câu chuyện đơn giản thôi, nhưng rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.
(Xem: 2545)
Vận hành thế sự bao quanh, bát quái càn khôn đỉnh là chung, âm dương ngũ hành là như thế, vật đổi sao dời chẳng ai ngờ…! Tất nhiên điệp khúc vẫn là đây.
(Xem: 2833)
Cọp, Sư tửbiểu tượng của chúa sơn lâm. Tiếng rống của Sư tử chúa, làm muôn thú khép mình khiếp sợ, được nhiếp phục trước uy lực dũng mãnh.
(Xem: 3475)
Bài Pháp hôm nay là một trong những bài Pháp có thể nói rằng rất khó quên trong cuộc đời của chúng tôi.
(Xem: 3785)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 3921)
Dù có nao nức đợi chờ hay hững hờ thờ ơ, dù có mong mỏi hay chẳng cầu vọng thì mùa xuân vẫn hiển hiện trong đất trời, trong lòng người.
(Xem: 2512)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, ngài đã nói như sau:
(Xem: 2493)
Năm mới là thời điểm nổi bật trong cuộc sống của chúng ta. Tôi nói thế khi nghĩ về việc thực hành của chúng ta.
(Xem: 2230)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn ...
(Xem: 3757)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 2852)
Để đạo Phật được toàn cầu hóa, ngoài những lợi thế sẵn có của Phật giáo Nguyên thủy, như bảo tồn được ...
(Xem: 4049)
Như Lai đã khẳng định “Như Lai chỉ là người dẫn đường”. Quả đúng như vậy, nếu chúng ta muốn đi đến đích mà không biết đường, trước tiên...
(Xem: 3246)
Nếu ăn chay được thì đó là dựa vào lập trường từ bi chứ không phải như người ta hiện này nói nguyên nhân khỏe mạnh và kinh tế.
(Xem: 3692)
Chúng ta phải cẩn thận để không nghĩ rằng hành thiền là phải dẹp bỏ các suy tưởng.
(Xem: 2899)
Bài kinh ngắn “Con Đường Không Có Lầm Lỗi” là bài kinh được trích trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikãya)
(Xem: 3782)
Thời Lý – Trần là thời kỳ vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam khi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ triều đình và
(Xem: 3333)
Cho đến nay, đại dịch COVID-19 đã hoành hành trên thế giới gần hai năm.
(Xem: 2914)
Bình anhạnh phúc là hai phạm trù cơ bản trong cuộc sống mà con người luôn mong ước đạt được đầy đủ và trọn vẹn nhất, để cuộc sống thêm thăng hoa
(Xem: 2680)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt.
(Xem: 3668)
Trong xã hội hiện nay, chúng ta đề cao tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời. Vậy làm thế nào để Phật sự mãi thăng tiến, tỏa sáng, ma sự ngày càng tiêu trừ.
(Xem: 2623)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3140)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3546)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3722)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2857)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2618)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3108)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3611)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3219)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant