Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hạnh PhúcHạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo

25 Tháng Ba 202215:48(Xem: 2664)
Hạnh Phúc Và Hạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo
Hạnh PhúcHạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo

Thích Giác Như


da

Theo Phật giáomặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trùhạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọ giác quan trong cuộc sống (sense pleasures), như có được tiền bạc, sắc đẹp, danh vọngtiện nghi, v.v.; và hạnh phúc về tinh thần (mental happiness), như tâm được vui mừng và an lạc.(2) Sự xuất hiện của Đức Phật ở thế gian và nội dung giáo lý Phật giáo không ngoài mục tiêu đem lại an lạchạnh phúc cho chư thiên và loài người. Nội dung giáo lý này là Tứ diệu đế (Cattāri Ariya-saccāni, The Four Noble Truths) bao gồm: dukkha (khổ), nguyên nhân của dukkha, sự đoạn tận dukkha, và phương pháp đem đến sự đoạn tận dukkha.

Trong các kinh Nikāya, Đức Phật thường khuyên các đệ tử truyền bá nội dung này “Vì lòng thương cuộc đời và vì an lạchạnh phúc cho chư thiên và loài người, các ngươi nên truyền bá giáo pháp khắp mọi nơi”. Vậy hạnh phúc theo quan điểm của Phật giáo là như thế nào, và bằng vào phương pháp nào để đạt được hạnh phúc đó? Quan trọng hơn, Phật giáo cho rằng mọi hiện hữu là vô thường, như thế, hạnh phúc mà con người có được trong bất cứ hình thức nào - vật chất hay tinh thần - đều bị chi phối bởi luật vô thườngVậy thì hạnh phúc thực sự theo quan điểm Phật giáo là gì? Bài viết này cố gắng trả lời những câu hỏi trên qua ý nghĩa kinh Hạnh phúc người tại gia và kinh Điềm lành.

A. Hạnh phúc tương đối (Hạnh phúc bị chi phối bởi luật vô thường)

Ước mong của bản thân và gia đình được hạnh phúc là điều ước chung của con người trong bất cứ thời đại nào. Ý tưởng này được thể hiện qua lời hỏi của Dighajanu đến với Đức Phật trong kinh Hạnh phúc người tại gia: “Bạch Ngài, chúng con là những người cư sĩ tại gia, có vợ và con cái. Mong Ngài dạy bảo cho con được biết bằng cách nào để đời sống hiện tại và đời sau này con được hạnh phúc”. Khi đó Đức Phật dạy cho Dighajanu bốn điều cần phải làm để tạo cuộc sống hiện tại được hạnh phúc:

1. Phải có một nghề nghiệp giỏi, phải siêng năng và nhiệt thành trong nghề nghiệp của mình.

2. Phải bảo vệ nguồn thu nhập của mình đừng để bị thiên tai làm tổn hại, và trộm cắp lường gạt. Nguồn thu nhập phải hợp pháp.

3. Tránh xa bạn ác. Luôn cẩn thận và học hỏi với những người có đức hạnh và trí tuệ.

4. Chi tiêu phải phù hợp với thu nhập của mình, không tiêu pha lãng phí tiền bạc trong cờ bạc và tửu sắc.

Để tạo cho đời sống tương lai được hạnh phúcĐức Phật khuyên Dighajanu phải thực hiện bốn điều sau đây:

1. Có niềm tin trọn vẹn về giá trị đạo đức và tâm linh (tức là có đức tin Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng và tin luật nhân quả).

2. Thực hành năm điều đạo đức bằng cách không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất làm não loạn tâm trí như rượu và ma túy.

3. Bố thí và làm những công việc từ thiện.

4. Phát triển trí tuệ để thấy được bản chất vô thường của cuộc đời, và giúp đoạn tận khổ đau (dukkha).

Tương tự như nội dung những điều trên mà Đức Phật đã dạy cho Dighajuna, trong kinh Điềm lànhmột vị Thiên tử đã hỏi Phật rằng bằng vào cách nào để các chúng sinh trong cõi người và trời được hạnh phúcĐức Phật đã trả lời câu hỏi của vị Thiên tử qua những bài kệ sau:

Không thân cận kẻ ngu,

Nhưng gần gũi bậc trí,

Đảnh lễ người đáng lễ.

Là điềm lành tối thượng.

Ở trú xứ thích hợp,

Công đức trước đã làm,

Chân chánh hướng tự tâm,

Là điềm lành tối thượng.

Học nhiều nghề nghiệp giỏi,

Khéo huấn luyện học tập,

Nói những lời khéo nói,

Là điềm lành tối thượng.

Hiếu dưỡng với cha mẹ,

Nuôi nấng vợ và con,

Làm nghề không rắc rối,

Là điềm lành tối thượng.

Bố thí hành đúng pháp,

Săn sóc các bà con,

Làm nghiệp không lỗi lầm,

Là điềm lành tối thượng.

Chấm dứt từ bỏ ác,

Chế ngự đam mê rượu,

Trong Pháp, không phóng dật

Là điềm lành tối thượng (3)

Nhìn vào những điều Đức Phật dạy cho Dighajanu và những lời dạy của Ngài trong phần đầu của kinh Điềm lành, ta thấy cả hai cùng diễn đạt một nội dung về những phương pháp thực hành căn bản và thiết thực để xây dựng một đời sống hạnh phúc: có nghề nghiệp giỏi để kinh tế gia đình được ổn định; biết hiếu dưỡng cha mẹ và nuôi nấng vợ congia đình sẽ được hạnh phúcthực hành bố thí thì kết quả có được cuộc sống giàu có; và thân cận với bạn lành giúp phát triển đạo đức và trí tuệ.

Điều quan trọng ở đây là, trong bốn điều cần phải thực hành để có một đời sống tương lai hạnh phúcĐức Phật đã dạy cho Dighajanu biết tầm quan trọng của sự thiết lập niềm tin về giá trị đạo đức trong cuộc sống (điều 1). Theo Phật dạy, muốn có hạnh phúc trong đời sống, mỗi cá nhân phải xem giá trị đạo đức là hướng đi hay kim chỉ nam cho đời sống của mình; nếu không, cuộc sống sẽ không bao giờ có hạnh phúcÝ nghĩa đạo đức mà Đức Phật dạy cho Dighajanu có thể hiểu qua hai cấp độ liên hệ; thứ nhất, đạo đức phổ biến (universal ethics), tức là năm giới hay năm điều cơ bản đạo đức (điều 2 và 3); và thứ hai, siêu đạo đức (super-ethics) là sự thanh lọc tâm tham, sân, si bằng trí tuệ để đoạn tận gốc rễ khổ đau và đạt hạnh phúc thực sự (điều 4). (Phần này sẽ được trình bày trong đoạn tiếp). Để thể hiện niềm tin vào giá trị đạo đức phổ biến, cả nhân loại phải thực hành năm điều đạo đức cơ bản: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Theo luật nhân quả trong Phật giáo, do tạo nhân lành qua sự thực hành năm giớicá nhân sẽ có được kết quả tương ứng về một đời sống hạnh phúcthân thể khỏe mạnh và sống lâu; cuộc sống được giàu cógia đình được hạnh phúc; có một cuộc sống hài hòa trong tương quan với mọi người; và tâm luôn được minh mẫn. Đến đây, qua lời dạy của Đức Phật như được trình bày ở trên, chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc và làm thế nào để đạt được nó. Ở đây cũng cần nhắc lại là ở phần đầu bài, hai phạm trù hạnh phúc đã được nêu lên, đó là hạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọ trong đời sống của mỗi cá nhân (sense pleasures) và hạnh phúc về tinh thần (mental happiness)Ý nghĩa hạnh phúc mà Đức Phật dạy cho Dighajanu, cũng như ý nghĩa hạnh phúc được trình bày trong những phần đầu của kinh Điềm lành gồm hai phạm trù đó; nghĩa là sự vui mừng, và an lạc của cá nhân cùng tương quan sinh khởi với sự giàu cógia đình hạnh phúc, sống lâu, khỏe mạnh, danh vọng, và tiện nghi, v.v...

Có một trường hợp ngoại lệ liên hệ đến hạnh phúc về tinh thần; đó là những chúng sinh đạt được một trong bốn tầng bậc của Tứ thiền (Dhyāna, trance).(4) Đối với những chúng sinh này, hạnh phúc về tinh thần không còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và cảm thọ của các quan năng, mà thuần là sự sinh khởi từ tâm thức. Theo Phật giáohạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọ thế giới bên ngoài hay hạnh phúc về tinh thần - dù tinh thần ở mức độ cao như ở Tứ thiền - tất cả đều bị chi phối bởi luật vô thường. Do vậy, loại hạnh phúc này được gọi là hạnh phúc tương đối.

B. Hạnh phúc thực sự

Hạnh phúc thực sự theo quan điểm Phật giáo là gì? Đó là sự chấm dứt khổ đau (dukkha) được giải thích như là Diệt đế (Nirodhā, P.) trong Tứ diệu đếhay nói một cách rốt ráohạnh phúc thực sự là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộn và sợ hãi. Chữ khổ hay dukkha nghĩa là không được xứng ý toại lòng (unsatisfactory). Trong giáo lý Tứ diệu đế, ngoài ý nghĩa chỉ rõ những kinh nghiệm khổ đau thường tình trong đời như sinh, lão, bệnh, tử, v.v..., ý nghĩa thâm sâu của khổ hay dukkha được cho là năm uẩn có tính chấp chặt hay bám víu (pañc' upadanakkhandha, P. The five aggrevates of grasping), thông thường được diễn đạt trong từ Hán-Việt như “Ngũ uẩn thủ là khổ”. Trong trường hợp này, chữ “khổ” mang ý nghĩa không được toại ý được hiểu ở mức độ rộng hơn. Vì sao không được toại ý? Vì bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con người và cuộc đời là vô thường, nhưng ước muốn của con người là thường, do vậy khổ - Vô thường là khổ (yad aniccam tam dukkham, P.). Sự không được toại ý làm con người thất vọng và chịu những hệ quả sầu muộnlo âu và sợ hãi. Khổ do không được toại ý hiện diện thường trực và chi phối đời sống con người - ngoại trừ những người đã giác ngộ.

Nhìn vào thực tế của đời sốngcon người luôn luôn ước mong bản thân và những sở hữu yêu quý của bản thân như tiền bạc, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, và những ý thức hệ, v.v... được trường tồn vĩnh cửu; nhưng cuộc đời là vô thường nên ước mong vĩnh cửu của con người không bao giờ hiện thực. Và hậu quả của sự ước mong không được như ý này làm cho người thất vọngsợ hãisầu muộn và lo âu khi nghĩ đến hoặc khi mất đi những gì mình yêu quý đó.

Làm sao để đoạn trừ khổ đau, sợ hãilo âu và sầu muộnhay nói cách khác, làm sao để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống? Phương pháp mà Phật đã dạy cho Dighajanu là sự phát triển trí tuệ qua tu tập để đoạn tận khổ đau (điều 4), và đây chính là nội dung được Đức Phật dạy trong Đạo đế (Magga, P.) trong giáo lý Tứ đếMục đích của sự phát triển trí tuệ (Paññā, P.) là giúp cá nhân thấy được bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con người và cuộc đời là vô thường. Để phát triển trí tuệcá nhân phải thực hành giới (Sīla, P.) hay những đạo đức căn bản, và thực tập thiền định (meditation). Giới giúp cho phát triển định, và định giúp phát triển tuệ.

Thực tập thiền định trong Phật giáo đòi hỏi hai phần hỗ tương: tập trung tâm không để tán loạn - định (Samādhi, P. Concentration) và hướng tâm theo dõi và ghi nhận rõ ràng trên đối tượng - niệm (Sati, P. Mindfulness) và đối tượng này có thể là một trong bốn loại - thân, cảm thọ, tâm và pháp.(5) Do năng lực tập trung tâm để quan sát và ghi nhận rõ ràng trên đối tượng, hành giả trực nhận được tính bất ổn, biến chuyển hay vô thường của đối tượng. Khả năng trực nhận hay kinh nghiệm trực tiếp này, được gọi là tuệ (Paññā, P. Wisdom)(6).

Do trực nhận được tính vô thường của đối tượng, hành giả giải phóng ý niệm bám víu và mong cho những gì mình yêu thích được vĩnh cửu, và kết quả là khổ đau, thất vọngsầu muộn và sợ hãi được đoạn trừ hoàn toàn. Điều quan trọng phải được nhấn mạnh ở đây là người thực chứng được cuộc đời vô thường, cũng phải sống như bao nhiêu người khác trong cuộc đời. Nghĩa là họ cũng phải làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ và cần phải có các phương tiện để tạo cho cuộc sống được hạnh phúcTuy nhiên, họ chỉ xem những thứ đó như là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Người đó có một cuộc sống tự chủ, không bị nô lệ bởi tiền bạc, danh vọng và những tiện nghi vật chất khác. Họ tự tại an nhiên trong vui buồnvinh nhục và thăng trầm của cuộc sống. Đây chính là ý nghĩa hạnh phúc thực sự được hiểu như là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộn và sợ hãi, được Đức Phật dạy ở những bài kệ cuối của kinh Điềm lành:

Khắc khổ và phạm hạnh,

Thấy được lý Thánh đế,

Giác ngộ quả: Niết-bàn,

Là điềm lành tối thượng.

Khi xúc chạm việc đời,

Tâm không sầu, không động,

Không uế nhiễm, an ổn

Là điềm lành tối thượng.

Ai sống được như thế,

Không chỗ nào thất bại,

Khắp nơi được an toàn

Những điềm lành tối thượng.

Người như vậy trong đạo Phật gọi là “người tỉnh thức” hay “người giác ngộ”. Do trực nhận hay giác ngộ được tính vô thường của con người và cuộc đời, tâm của vị ấy được tịnh hóa, không còn bị lòng tham và bám víu chi phối. Lòng tham và tính bám víu đồng nghĩa với vô minhvị ngã và độc ác. Ngược lại với vô minhvị ngã và độc ác, người giác ngộ có trí tuệ rốt ráo và lòng từ bi vô biên. Do lòng từ bi vô biên, người giác ngộ thấy được khổ đau của tất cả mọi chúng sinh như là khổ đau của chính mình, và nguyện cứu giúp tất cả; với trí tuệ rốt ráo, người giác ngộ thi thiết những phương tiện thiện xảo để đem lại hạnh phúc tương đối (như tiền bạc, danh vọnghạnh phúc gia đìnhtiện nghi vật chất, v.v...) cho chúng sinh và từ đó hướng dẫn chúng sinh thực tập giáo pháp để được hạnh phúc thực sự.

Sống an nhiên tự tại trong đời với tâm không bị tham lam bám víu chi phối, và làm tất cả mọi việc để lợi ích cho chúng sinh với động cơ của lòng từ bi là ý nghĩa “siêu đạo đức” trong Phật giáoĐức Phật là người giác ngộĐại Trí Văn Thù Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Phật hoàng Trần Nhân Tông, v.v..., là những người giác ngộ. Những vị này giúp chuyển hóa khổ đau của chúng sinh thành hạnh phúc và thế giới ô trược thành tịnh độ.

C. Kết luận

Qua hai bài kinh trên, ta thấy ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Hạnh phúc người tại gia rất cụ thể và thực tế với đời sống; trong khi đó, ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Điềm lành có nét văn chương và đậm tính triết lý. Đối tượng để Phật giảng trong kinh đầu là người - Dighajanu - trong khi đó, kinh sau là chư thiên. Ngoài những điểm khác biệt trên hình thức đó ra, hai bài kinh đều có nội dung thống nhất, chuyển tải quan điểm hạnh phúc trong Phật giáo; đó là, trong khi không phủ nhận giá trị hạnh phúc mà con người (và chư thiên) có được trong cuộc đờiĐức Phật dạy cho chúng ta biết rằng đó không phải là hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc thực sự theo Phật dạy là sự trực nhận được hạnh phúc mà con người và chư thiên có được chỉ là tương đối (vô thường). Đây chính là ý nghĩa “Sinh tử tức Niết-bàn”, “Phiền não tức Bồ-đề” mà Phật giáo Đại thừa xem như là triết lý tu tập và phương thức hành đạo của Bồ-tát.

_____________________

(1) Trong bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châuđề mục của kinh là “Dighajanu, Người Koliya.”, chương 8, số 54 trong Tăng chi bộ kinh, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Dựa trên nội dung của bài kinh, tôi chuyển đề mục thành đề “Kinh Hạnh phúc người tại gia”Mục đích là giúp độc giả nghe thuận tai và dễ nhớ.

(2) “Phẩm Lạc,” chương II, phẩm VII, Tăng chi bộ kinh (Aṅguttara Nikāya); Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com

(3) “Kinh Điềm lành” (Mangala Sutta), Tiểu bộ kinh (Khuddhaka Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com

(4) Tứ thiền:

Sơ thiền: Do tách rời lòng dục và những tâm lý bất thiện, tâm của hành giả được “hỷ” và “lạc” (rapture and happiness)tuy nhiên, tâm vẫn còn “tầm” và “tứ” (reflection and investigation).

Nhị thiền: Do tâm được trở nên tập trung và tĩnh lặng, hành giả loại trừ được “tầm” và “tứ.” Hỷ và lạc vẫn còn.

Tam thiền: Do nỗ lực an trú tâm trong tĩnh lặng, nên “hỷ” được đoạn trừ, và chỉ còn “lạc.”

Tứ thiền: Tâm của hành giả được hoàn toàn tĩnh lặng (equanimity)vắng mặt những ý niệm thiện, ác, hạnh phúc hay khổ đau.

(5) “Kinh Niệm xứ,” số 10, Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Đây là một trong những bài kinh đầy đủ và quan trọng nhất nói về thiền địnhđặc biệt nhấn mạnh về sự phát triển Minh sát tuệ (Vipassanā, P. Insight). Trong kinh Đức Phật dạy, Tứ niệm xứ hay bốn lãnh vực gồm thân, thọ, tâm và pháp, mà hành giả cần để tâm chánh niệm là con đường trực tiếp dẫn đến giải thoát hay hạnh phúc thực sự.

(6) Trí tuệ trong Phật giáo bao gồm ba tầng bậc: nghe, nghĩ và thực hành (văn, tư, tu). Để đoạn tận khổ đau, sầu muộnlo âuhành giả phải thực hành (tuệ). Tuy nhiên, nghe và tư duy về vô thường hay bản chất tương đối của con người và cuộc đời sẽ giúp đoạn thiểu khổ đau, sầu muộn trong đời sống. Bởi tiến trình nghe pháp hay tụng kinhý nghĩa vô thường sẽ thẩm thấu vào tâm thức của mình và sẽ tạo nên một kháng lực mỗi khi chúng ta gặp những sự cố bất như ý trong cuộc sống. Từ đó, những khổ đau, sầu muộn sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể. Đây là lý do tại sao các Phật tử phải nên nghe pháp và tụng kinh thường xuyên. Thích Giác Như/Báo Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13052)
Dù chỉ mới là những lời giới thiệu cô đọng nhưng súc tích của mỗi vị giảng sư nhưng đại chúng đều cảm nhận được biển tuệ mênh mông của quý ngài...
(Xem: 14482)
Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. - Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman.
(Xem: 14403)
Thông điệp từ trái tim của mỗi người sẽ là sợi dây truyền thông đến cộng đồng, bằng sự tương tác và tương tức; rằng, nếu mình phát đi tình thương thì người khác sẽ cảm nhận được...
(Xem: 19299)
Buổi sáng ra vườn, nhìn lên trời cao bồng bềnh mây trắng/ Nhìn xuống khu vườn, còn thơm ngát sương lan/ Nhìn ra đầm sen, nở rộ những cánh sen hồng...
(Xem: 13712)
Chúng ta ai cũng có sẵn trong lòng tình thương bao la, mang tình thương bao la đó mà làm việc, ta sẽ vượt mọi trở ngại bên trong và bên ngoài
(Xem: 15504)
Người thanh niên lái xe chỉ kịp bỏ vội đồng 5 xu vào cái nón mê của bà cụ rồi lại vội vã đánh xe đi, tránh những tiếng còi xe đằng sau inh ỏi.
(Xem: 13894)
Nó đến Úc, vào lúc Brisbane đang vào mùa hoa phượng tím... Những góc trời tím màu hoa. Chị nói chắc mấy cây phượng nở hoa đón em...
(Xem: 14703)
Sớm. Phố hãy còn lặng lẽ trùm chăn trong cái lạnh của màn sương dày đặc. Mây kéo về giăng kín khiến khí trời thêm buốt giá.
(Xem: 15251)
Mùa sen nở, mùa của những linh thiêng nơi thánh tích và trong lòng người. Những thông điệp được phát đi giữa mùa sen cũng là tiếng nói của lương tri con người trước hiện tại.
(Xem: 14769)
Cuộc sống là một dự án do chính mình thực hiện. Cuộc sống của bạn hôm nay là kết quả của những thái độ và sự chọn lựa của bạn trước đây.
(Xem: 13934)
Cuộc sống là một chuỗi những điều ưu tiên. Và những điều ưu tiên hàng đầu của bạn là gì? Hãy dành cho những người mà bạn yêu quý hơn 5 phút trong quỹ thời gian hằng ngày của bạn.
(Xem: 13521)
Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.
(Xem: 12771)
Bên trong cửa chùa, Nhân trở thành nhà làm vườn chuyên nghiệp tràn đầy niềm say mê sáng tạo cùng với nhiệt tình năng nổ của tuổi trẻ. Hắn có nhiều dự tính cho tương lai.
(Xem: 13979)
Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó...
(Xem: 13137)
“Hôm nay cá nhân tôi sống dưới ánh sáng từ bi của Đạo Phật và tôi đã mang tình thương yêu ấy đến với mọi người, không phải do tôn giáo của tôi mang đến, mà việc nầy khởi đầu bằng tình thương của người mẹ không biết chữ của tôi…”
(Xem: 13685)
Anh và em là những người có đạo. Nhưng đạo của chúng ta là một tôn-giáo nhân bản, một tôn giáo không hề có tín lý hay giáo điều...
(Xem: 13048)
Tôi cố gắng để phát triển một động cơ hay quyết định, mà như một thầy tu Đạo Phật, cho đến khi Phật quả của tôi, cho đến khi tôi đạt đến Phật quả...
(Xem: 12980)
Tin vô thường, ta biết mọi điều không thể mãi mãi như thế này, để không hí hửng vênh vang với cái mình có được, hoặc đau khổ nhụt chí với những thất bại mất mát...
(Xem: 13272)
Bạn sẽ thật sự hạnh phúc khi tiếng nói của nội tâm của mình được vang vọng trong chiều hướng thăng tiến của tâm linh, không còn sự chấp thủ...
(Xem: 14755)
Thật là dễ nếu cảm ơn những thứ tốt đẹp, nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa.
(Xem: 14978)
Giá trị của thành công được đo bằng thước đo của sự khó khăn, như lời Đức Phật dạy: “Ở đời đừng cầu không khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy”.
(Xem: 13120)
Mênh mông là nước, xanh xanh sâu lắng, cười đùa. Vung tay là nước, cười ra nước, hồn của nước non. Giữa khoảng không nầy, không gì có thể bám víu.
(Xem: 15084)
Có những lần ta lắng nghe chiếc lá… Chiếc lá nói rằng… …em thoát thai từ mẹ cây, em sống bởi sự vay mượn khí trời, ánh nắng...
(Xem: 21912)
“Bạch mai, em đi mãi”. Không có sự dừng lại trong vòng chuyển dịch sinh -diệt, diệt – sinh. Nó đắp đổi nhau tạo nên dòng chảy cuộc đời.
(Xem: 15197)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu.
(Xem: 14286)
Vậy là bên dưới những cuộc chiến, luôn có góc khuất, sự ẩn tàng của bình yên. Nếu khéo tay một chút, ta có thể phát huy năng lượng tươi tắn của đóa hoa...
(Xem: 14773)
Đối với người biết trích lấy tinh khí của cuộc sống thì chết không có nghĩa là sự suy tàn cuối cùng, nhưng là sự kết thúc trong thanh tịnh của một đời sống trọn vẹn...
(Xem: 14344)
Thiện do Đức Phật trình bày, thiện ấy là tốt đẹp, cao thượng và hoàn chỉnh. Thiện ấy là xuyên suốt mọi thời gian mà không phải từng giai đoạn.
(Xem: 17560)
Nhớ về những điều xưa cũ để định vị mình của hiện tại, để trân quý những gì đã qua, để biết ơn những người đã ở bên mình, là động lực cho mình...
(Xem: 17816)
Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không. Vừng trăng vằng vặc in sông, Chắc chi có có, không không mơ màng. Phan Trang Hy
(Xem: 17827)
Mây trắng bay đi đây đó, phơi mình trong nắng, thế mây trắng có thong dong không? Tôi hỏi và ngồi thật im, quán thật sâu để nghe mây trắng trả lời...
(Xem: 13888)
Trước thế kỷ này các nhà khoa học và thần học đều giả định giống nhau rằng vật chất không thể được tạo ra (hoặc hủy diệt) bằng các phương tiện có trong thiên nhiên.
(Xem: 13531)
Vào cõi thơ Mặc Giang một thoáng chơi, ta càng say đắm, trí tuệđạo đức con người càng tăng trưởng, cảm nhận được niềm vui vô tận.
(Xem: 12784)
Đừng để đến lúc ly biệt rồi mới thấy tiếc nuối những ngày tháng tương phùng. Đừng để tới giờ chia cách rồi mới bàng hoàng nghĩ đến những phút giây gặp gỡ...
(Xem: 14694)
Chúng ta chỉ có hai lựa chọn. Một là cố gắng một cách điên cuồng để đảo lộn mọi thứ, hai là cố gắng chấp nhận hoàn cảnh.
(Xem: 15045)
Ngày nay càng có nhiều sự thừa nhận qua sự phát triển và chứng minh của khoa học về sự nối kết gần giữa trạng thái của tâm và hạnh phúc.
(Xem: 15649)
Bằng việc quán tưởng về tiền bạc, chúng ta có thể cảm nhận được cả hai mặt của đồng tiền: nó có thể dìm ta xuống mà cũng có thể đưa ta lên...
(Xem: 15882)
Chẳng hay tự thuở nào, mỗi buổi sáng mở mắt bỏ chân xuống đất tìm dép để đi là con gọi mẹ. Cất bước, bước chân đầu tiên trong ngày là con gọi mẹ.
(Xem: 15487)
Một tâm thức an bìnhthanh thản giúp ta phát huy tình thươnglòng từ bi dễ dàng hơn, đấy là hai phẩm tính giúp ta loại bỏ mọi sự ganh tị, sợ hãi và nóng giận.
(Xem: 13132)
Đạo Phật nói cho tất cả chúng ta rằng, mọi người trên trái đất nầy đều là anh em. Tất cả chúng ta đều là người con của đức Phật. Bởi vì trong mỗi chúng ta đều có Phật tánh.
(Xem: 15235)
Cô bé choàng tỉnh giấc. Trời đêm. Vắng. Lạnh. Gió se sắt. Một giọng nói êm đềm cất lên: "Chào con gái của mẹ. Con hãy gia nhập đời sống trong khoảnh khắc vô cùng.
(Xem: 15645)
Trong năm giới luật (ngũ giới) dành cho những người con Phật tại gia, giới thứ tư là “không nói dối”. Rất nhiều người Phật tử đồng ý rằng, giới này là giới khó thực hiện nhất.
(Xem: 16409)
Nói dối, ta đã từng. Nói dối, có nghĩa là ta không thật thà. Có lúc bụng dạ ta thật thà nhưng ta nói dối và có khi bụng dạ ta không thật thà và ta nói dối…
(Xem: 16143)
Ai đó bảo, ngay khi cho bạn đã nhận lại (rất nhiều). Và thế là tôi áp dụng mệnh đề đó cho bằng an - một giá trị cao quý nơi tâm hồn...
(Xem: 17235)
Thông thường, người ta nói đến bạn có nghĩa là nói đến những thực thể đồng loạicon người. Và thường người ta bỏ quên những thực thể khác...
(Xem: 15703)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta?
(Xem: 14420)
Năm nay sẽ là một năm đặc biệt để người Nhật trải nghiệm sâu sắc về lẽ vô thường, hư ảo của cuộc sống qua từng cánh hoa rơi.
(Xem: 15407)
Một ngày mùa xuân, thi sĩ ngồi tĩnh tâm bên bờ nước trong vườn. Trời mưa nhè nhẹ, văng vẳng đâu đây tiếng chim bồ câu rung rúc vang vọng lại.
(Xem: 17148)
Daisy là đóa hoa của nàng công chúa Bạch Tuyết, có trái tim yêu thương không sợ hãi - dù gặp bà mẹ ghẻ phù thủy độc ác mà nàng không hận thù.
(Xem: 16216)
Trong cuộc sống, có rất nhiều cái mình không thể, hoặc không đủ trí tuệ, khả năng nhận biết sự hiện diện (từ xa) của nó nên mình đặt nó vào hai chữ… bất ngờ!
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant