Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật

04 Tháng Mười Hai 202208:52(Xem: 1969)
Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật
Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật

Thích Trung Định

Chế Ngự Tâm, Soi Sáng Lại Mình

Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con ngườiTư tưởng không những chi phối hành vi và lời nói mà còn ảnh hưởng đến nếp sống, phong thái, văn hóa, của con người trong đời sống hằng ngày. Mỗi tôn giáo, hay một triết thuyết nào cũng đều có một hệ thống tư tưởng chủ đạo. Dựa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo này họ bắt đầu triển khai công việc xoay quanh trục tư tưởng đó. Trong một thể chế, tư tưởng làm ổn định lòng người, tạo sức mạnh niềm tin và củng cố khối đại đoàn kết.


Có hai loại tư tưởng chủ đạo, đó là thiện và bất thiệnTư tưởng thiện là tia sáng đầu nguồn dẫn đường đưa chúng ta đi đến mục tiêu cao đẹp tận cùng. Ngược lại, tư tưởng bất thiện nhấn chìm chúng ta đi vào bóng tối của khổ đau và đọa lạc. Việc định hướng tư tưởng giúp ích con người mở ra hướng đi mới, vươn tới tương lai tươi sáng, huy hoàng.

Theo Mahatma Gandhi: ‘Có hai loại tư tưởng khác nhau, đó là: Loại hình thành từ cái đầu và loại xuất phát từ trái tim.’ Loại tư tưởng hình thành từ cái đầu hàm chứa những nội dung xuất phát từ lý trí; và loại tư tưởng xuất phát từ trái tim hàm chứa nội dung xuất phát từ tình thươngLời nói này khá tương đồng với tư tưởng cốt lõi của đạo Phật đó là từ bi và trí tuệTrí tuệ là sự hiểu biết và từ bi là tình thương yêu. Hiểu và thương luôn bổ sung cho nhau để hoàn thiện một nhân cách viên mãn. Nếu thiếu một trong hai khía cạnh thì vấn đề sẽ trở nên khập khiễng, không vững bền và dễ đổ gãy. Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui trong hiện tạiThực hành lối sống đạo đức chính là cốt lõi và điểm chính yếu của đạo Phật.[1]

Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình. Có thể nói, đức Phật là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loạiNgay sau khi thành đạo, ngài đã đi khắp mọi miền của đất nước Ấn Độ cổ đại để truyền bá tư tưởng từ bigiác ngộ và giải thoát cho mọi ngườiSự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của dòng chuyển biến về quan niệm nhân sinh và thế giới, là cuộc cách mạng hoàn toàn về nhận thứctư duy cũng như hành động của con người. Lời dạy của đức Phật đã thổi một cơn gió mát mẻ vào thành trì kiên cố của tư tưởng Vệ đà. Đã rọi tia nắng ấm áp cho màn đêm tâm thức của con người. Bình minh tiếp tục rạng soi trên khung trời triết học phương Đông và toàn thể nhân loại.[2]

Trong suốt bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinhđức Phật luôn định hướng cho con người hai vấn đề cốt lõi đó là khổ đau và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Hàm chứa trong tất cả lời dạy của đức Phật đều định hướng tư tưởng cho người nghe một cách rõ ràng. Trong kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì (Sevibba-asevibbasutta) thuộc Trung bộ kinhđức Phật đã đề cập đến sự phát sinh tư tưởng của hai loại, một là nên hành trì và không nên hành trìBình luận về tuyên bố này, Tôn giả Xá-lợi-phất giải thích thêm rằng, con người nên tuân theo loại tư tưởng nào phát sinh không liên quan đến sự tham muốnác tâm, làm hại, và ngược lại. Nói cách khác, để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, hành giả nên phát triển tư tưởng không tham muốn, không ác tâm, không gây hại và nên dừng những suy nghĩ liên quan đến tham muốnác độc, làm hại.[3]

Trong hai câu mở đầu của Kinh Pháp Cúđức Phật đã dạy: “1. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo. 2. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình.” Lời dạy này chỉ ra rõ ràng rằng, bất kỳ kết quả nào mà một người đang nhận được, dù là tốt hay xấu, đều bắt nguồn từ suy nghĩ của họ. Từ quan điểm này, đức Phật xem việc định hướng tư tưởng là hoàn toàn cần thiết cho hoạt động của con người.

Trong kinh Đoạn Giảm (Sallekhasutta) thuộc Trung bộđức Phật đã chỉ dạy Tỷ kheo Cunda về các loại tư tưởng nào nên phát triển và tư tưởng nào nên loại bỏ. Trong bản kinh này có 44 đối tượng được liệt kê để thực hànhcụ thể là:
(1) Làm hại, không làm hại.
(2) sát sanhtừ bỏ sát sanh,
(3) lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho.
(4) không phạm hạnh, sống phạm hạnh,
(5) nói láo, từ bỏ nói láo,
(6) nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi,
(7) nói lời độc áctừ bỏ nói lời độc ác,
(8) nói lời phù phiếmtừ bỏ nói lời phù phiếm,
(9) tham dục, không tham dục,
(10) sân tâm, không có sân tâm,
(11) tà kiếnchánh kiến,
(12) tà tư duychánh tư duy,
(13) tà ngữchánh ngữ,
(14) tà nghiệpchánh nghiệp,
(15) tà mạngchánh mạng,
(16) tà tinh tấnchánh tinh tấn,
(17) tà niệm,  chánh niệm,
(18) tà địnhchánh định,
(19) tà tríchánh trí,
(20) tà giải thoát, chánh giải thoát,
(21) hôn trầm thụy miên, không có hôn trầm thụy miên,
(22) trạo hối,  không có trạo hối,
(23) nghi hoặctrừ diệt nghi hoặc,
(24) phẫn nộ, không có phẫn nộ,
(25) oán hận, không có oán hận,
(26) hư ngụy, không hư ngụy,
(27) não hại, không não hại,
(28) tật đố, không tật đố,
29) xan tham, không xan tham,
30) man trá, không man trá,
(31) khi cuống, không khi cuống,
(32) ngoan cố,  không ngoan cố,
(33) cấp tháo, không cấp tháo,
(34)  khó nói (nan thuyết), dễ nói,
(35) ác hữuthiện hữu,
(36) phóng dật, không phóng dật,
(37) bất tíntín tâm,
(38) không xấu hổ, có xấu hổ,
(39) không sợ hãi, có sợ hãi,
(40) nghe ít, nghe nhiều,
(41) biếng nhác, siêng năng,
(42) thất niệman trú niệm,
(43) liệt tuệ, thành tựu tuệ,
(44) nhiễm thế tụccố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.[4]

Bốn mươi bốn phạm trù tư tưởng được đức Phật liệt kê ở trên nhằm định hướng cụ thể cho hành giả áp dụng thực hành. Một người bắt đầu thực hiện bài thực tập này bằng cách đưa ra quyết định trong tâm trí của mình là không chấp nhận những gì sai trái, có hại, mà tuân theo những gì đúng đắn và hữu ích. Theo đức Phật, khi một người suy nghĩ và phản ánh nhiều về bất cứ điều gì trong tâm trí của mình, thì kết quả của hành động ​​theo cách đó. Trong thực tế khi tư tưởng hướng theo chiều hướng tốt, đúng đắn, thì mọi hoạt động của con người sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và kết quả là hạnh phúc và bình yên sẽ đến. Đó là lý do tại sao đức Phật đã tuyên bố trong Tương ưng bộ kinh rằng: “Nếu tâm trí của một người được hướng dẫn, điều phục tốt, nó sẽ đoạn trừ được vô minhđạt đến trí tuệ và thành tựu Niết bàn.”[5]

Heidegger một triết gia người Đức, chuyên tìm hiểu về ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại con người, ông nhận chân được giá trị của tư tưởng thiền định trong Phật giáo có thể cứu vãn được các vấn đề của thời cuộc. “Trước sự sụp đổ của con người và thời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta hãy trở về với tư tưởng thiền định (Meditation) và từ bỏ tư tưởng tính toán của tổ chức, kinh doanh, kỹ thuật, kỹ nghệ, cơ khí, chính trị, xã hộithần học, khoa học. Heidegger đã bước đi về trên con đường Phật giáo và chính Heidegger cũng không ngờ được. Đối với Heidegger, con người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng qua tư thái song hành: tâm hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu bí mật.”[6]

Ngày này, trong thời đại văn minh công nghệ hiện đại, thông tin đa chiều và nhiễu loạn, thì việc định hướng tư tưởng là vô cùng cần thiết. Thầy định hướng tư tưởng cho học trò, cha mẹ định hướng tư tưởng cho con cái. Nếu áp dụng sớm thì sẻ giúp ích cho học trò và con cái có được hướng đi vào đời vững vàng và sẻ gặt hái được thành côngNếu không giới trẻ sẻ hoang mang vô định dẫn đến những sai lầm không đáng có.

Tóm lạiphương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật là vô cùng thiết thực và ý nghĩa. Thông qua phương pháp này, hành giả dễ dàng tiếp nhận và thực hành theo. Tư tưởng Phật giáo có mặt trên hai ngàn năm qua đã giúp nhân loại vượt qua bao cơn khủng hoảng, chiến tranh và hận thùPhật giáo cung cấp cho loài người một con đường để tự mình hoàn thiện bản thânthiết lập một nền tảng giá trị đạo đức chân chính, mở ra cánh cửa an lạc và giải thoát cho con người.

Ghi chú:
[1] Khuông Việt, Tạp chí nghiên cứu và phổ biến tri thức Phật học, https://khuongviet.com.vn/giao-duc/huong-thien-xay-dung-cuoc-song-tot-dep-la-tu-tuong-chu-dao-cua-phat-giao-12738/31/
[2] Thích Trung Định, Như một dòng sông, Nxb. Thuận Hóa, 2010, tr.77-87.
[3] Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh 114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì (Sevitabba-asevitabba sutta) https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung114.htm.
[4] Thích Minh Châu, dịch, Trung Bộ kinhKinh Đoạn giảm (Sallekha sutta), https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung08.htm.
[5] F. L. Woodward, The Book of the Gradual Sayings, Vol.I, p.6.
[6] Trích, Tạp chí tư tưởng Đại học Vạn Hạnh, số 1, năm 1967, tr.v
Báo Giác Ngộ, số 1176
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24139)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20564)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18813)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13946)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13143)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15390)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19447)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14703)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21993)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20621)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15764)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20710)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18626)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30593)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26544)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant