Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Gương Pháp

15 Tháng Ba 202319:07(Xem: 1721)
Gương Pháp

GƯƠNG PHÁP

Thích Nguyên Hùng


Chánh Niệm Trong Đời Sống

Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt) liên tục, miên viễn, vô thuỷ, vô chung. Cho nên, cái chết là lẽ tự nhiên, đương nhiên của tiến trình sự sống, không có gì phải lo lắng, sợ hãi và lấy làm quan trọng vấn đề. Vả chăng, như Khổng Tử nói: "Sống còn chưa biết thì biết chết làm gì?"

Thế nhưng, ai trong chúng ta cũng hơn một lần nghĩ rằng sau khi chết mình sẽ đi về đâu? Không ít lần ngồi tư lự chúng ta chợt nghĩ không biết cha mẹ, người thân của mình đã qua đời giờ đang ở chốn nào? Tôn giả A-nan cũng như vậy. Một hôm, ở chỗ thanh vắng, tôn giả lặng yên suy nghĩ, ở trong thôn Kiền-chùy có nhiều cư sĩ vừa mới qua đời, không biết họ tái sinh về chốn nào? Suy nghĩ như vậy rồi tôn giả bèn đến hỏi Đức Phật. Đức Phật nói cho tôn giả A-nan biết về chỗ tái sinh của những cư sĩ ấy xong thì rầy: "Này A-nan, phàm có sinh thì có chết, đó là lẽ thường của cuộc đời, có gì lạ đâu. Nếu thấy mỗi người chết thầy đều đến hỏi Như Lai, như vậy chẳng phải là quấy rầy ư?" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Quả thật, nếu việc gì và thấy ai chết cũng hỏi Phật họ sinh về đâu thì quấy rầy Ngài quá! Nhưng mà ngoài Đức Đại Giác Thế Tôn chúng ta biết còn hỏi ai? May thay, dù la rầy tôn giả A-nan, Đức Phật vẫn từ bi chỉ cho tôn giả cũng như chúng sinh đời sau tự biết rõ chỗ thọ sinh của chính mình và người khác. Kinh ghi: "A-nan! Nay Như Lai sẽ nói cho thầy về Gương pháp để các Thánh đệ tử biết chỗ thọ sinh, dứt hết ba đường dữ, chứng quả Tu-đà-hoàn, không quá bảy đời sẽ tận cùng giới hạn của khổ và cũng có thể nói việc ấy cho người khác" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Gương pháp, tiếng Hán gọi là Pháp kính (法 鏡), tiếng Pali là Dhammādāsa, nghĩa là tấm gương pháp, tấm gương soi rọi sự thật. Chỉ cần nhìn vào tấm gương này nếu thấy mình có trong đó, thấy mình được phản chiếu trong đó thì biết một cách chắc chắn rằng ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh sẽ không có mặt mình. Ngược lại, nếu nhìn vào tấm gương này mà không thấy có mình, mình không được phản chiếu trong đó thì biết một cách chắc chắn rằng mình sẽ đọa lạc một trong ba đường ác. Vậy Gương pháp đó là gì? Phật dạy: "Này A-nan! Gương pháp đó là, Thánh đệ tử đạt được niềm tin bất hoại, hoan hỷ tin Phật là đấng Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu; hoan hỷ tin Pháp là giáo pháp chân chánh vi diệu, do Phật tuyên thuyết, vượt thoát thời gian, chỉ bày đường đến Niết-bàn, được người trí thực hành theo; hoan hỷ tin Tăng là đoàn thể những người khéo sống hòa đồng, hành động chất trực, không hề dối trá, đạo quả thành tựu, trên dưới hòa thuận, đầy đủ pháp thân, hướng Tu-đà-hoàn, đắc quả Tu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, đắc quả Tư-đà-hàm, hướng A-na-hàm, đắc quả A-na-hàm, hướng A-la-hán, đắc quả A-la-hán, đó là bốn đôi tám bậc, chính là chúng Hiền Thánh của Như Lai, rất đáng để cung kính, là ruộng phước thế gian; hoan hỷ tin giới của Hiền Thánhthanh tịnh không nhiễm, không có khiếm khuyết, bậc minh triết hành theo, đắc định Tam-muội.

"A-nan! Đó là Gương pháp để Thánh đệ tử biết chỗ thọ sanh, thoát ba đường ác, đắc quả Tu-đà-hoàn, không quá bảy lần tái sanh ắt sẽ dứt sạch khổ đau và cũng có thể nói với người khác như thế" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Như vậy, Gương pháp được nói ở đây là Tứ bất hoại tín, là Bốn niềm tin không bao giờ thay đổi, không bao giờ hư hoại, hay không bị thối chuyển đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới. Bốn niềm tin này như một tấm gương, và người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, phát nguyện giữ gìn Năm giới, được bổn sư trao cho tấm phái quy y, hay giấy chứng nhận quy y, chính là trao cho chúng ta một tấm gương. Chúng ta đem tấm gương này về treo trong nhà ở vị trí trang trọng nhất để hằng ngày chúng ta tự soi mình vào đó, để xem với bốn pháp mình đã quy y mình có giữ gìn trọn vẹn không? Nếu được trọn vẹn, được thanh tịnh, được không lay chuyển tức là mình đã đạt được niềm tin bất hoại, ngay đó mình tự biết ba đường ác không còn có mặt mình, tức là được dự vào dòng Thánh, chứng quả Dự lưu.

Vậy thì, một đời người Phật tử, đôi khi không cần tu học gì nhiều, mà chỉ cần giữ vững niềm tin với Tam bảo và giữ trọn vẹn Năm giới là đã thoát ly ba đường ác rồi! Hơn nữa, nếu người Phật tử nào "thành tựu bốn pháp thanh tịnh, vững chắc mà muốn cầu được sống lâu liền được sống lâu, cầu có được sắc đẹp, sức khỏe, niềm vui, biện tài, tự do thì đều được như ý"; người Phật tử nào "thành tựu bốn pháp thanh tịnh, vững chắc thì ở trong loài người sẽ không chịu cảnh nghèo khốn, không bị đói rét, xin ăn, mà tự nhiên giàu sang sung túc" (Kinh Tạp A-hàm).

Rõ ràng, với Bốn niềm tin bất hoại, người Phật tử gặt hái được mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại cũng như đời sau. Cho nên, Đức Phật khuyên các thầy nên dạy pháp này cho Phật tử. Kinh ghi: "Các thầy nên khởi tâm thương xóttâm từ bi. Đối với những gì các thầy giảng nói, nếu có người nào thích nghe và thích thọ trì thì các thầy hãy vì họ mà giảng nói về bốn pháp thanh tịnh, vững chắc giúp cho họ được chứng nhập và an trụ. Bốn pháp ấy là những gì? Đó là thành tựu niềm tin thanh tịnh, vững chắc đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng và đối với Thánh giới. Vì sao như vậy? Bởi vì dù cho một trong bốn đại là đất, nước, gió, lửa có biến đổi hay tăng giảm thì bốn pháp thanh tịnh, vững chắc này chưa từng biến đổi hay tăng giảm. Bốn pháp này không biến đổi hay tăng giảm, nghĩa là vị Thánh đệ tử đa văn đã thành tựu niềm tin thanh tịnh, không thay đổi đối với Phật rồi thì nhất định không xảy ra sự việc rơi vào địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh" (Kinh Tạp A-hàm).

Phát nguyện quy y Tam bảogiữ gìn năm giới là khó, mà để thành tựu niềm tin không lay chuyển đối với Tam bảoThánh giới lại càng khó hơn. Thực tế cho thấy, nhiều người đã quy ythọ giới, đã trở thành Phật tử, nhưng niềm tin với Tam bảo và khả năng giữ gìn trọn vẹn năm giới chưa thật sự "bất hoại", dễ bị lung lạc, lay chuyển, dễ bị tác động bởi thị phi, danh lợi… Hơn nữa, dù có tin Phật nhưng không hiểu Phật là đấng Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, là Thầy dẫn đường mà xem Phật như đấng thần linh ban phước giáng họa, gia hộ độ trì để lễ lạy cầu xin. Tin Pháp nhưng không hiểu Pháp là giáo pháp chân chánh vi diệu, do Phật tuyên thuyết, vượt thoát thời gian, chỉ bày đường đến Niết-bàn, được người trí thực hành theo mà xem Pháp như đối tượng siêu nhiên, tụng đọc, lễ lạy sẽ được phước, sẽ được siêu, sẽ được an, nên cứ tụng đọc theo mùa; ma chay thì tụng Di-đà, Địa tạng, hiếu hỉ thì tụng Vu-lan Báo ân, cầu an thì tụng Phổ môn, đầu năm thì tụng Dược sư… Tin Tăng nhưng hiểu Tăng là đoàn thể những người khéo sống hòa đồng, hành động chất trực, không hề dối trá, đạo quả thành tựu, trên dưới hòa thuận, đầy đủ pháp thân mà chỉ biết ‘thầy mình’ có chùa, có chức, có học vị… Tin giới nhưng không thực hành giới để đời sống được thanh tịnh, không nhiễm… Do đó, rất ít người Phật tử thành tựu được niềm tin bất hoại.

Cho nên, người Phật tử đã quy y Tam bảophát nguyện giữ gìn năm giới là đã tiếp nhận tấm Gương pháp. Hãy tự soi mình vào đó để thấy cuộc đời mình sẽ đi lên hay đi xuống. Chỉ cần soi mình vào tấm Gương pháp là sẽ nhận biết được mình đi về đâu. Nếu các bạn soi mình vào Gương pháp và thấy mình hiện ra rõ ràng trong tấm Gương pháp ấy, nghĩa là các bạn đã thành tựu niềm tin không lay chuyển đối với Tam bảoThánh giới, chắc chắn bạn đã chứng quả Dự lưu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20566)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18818)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18269)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19841)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14840)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13950)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14003)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17631)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15393)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14689)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14452)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21891)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20601)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25129)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14707)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18970)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20631)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25276)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15769)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20718)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17002)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20013)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31504)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36009)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23860)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26546)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant